Điểm sáng “Phường thợ ngày ấy”

13:22, 07/09/2012

 Khi biết tôi có ý định tìm hiểu về “phường thợ ngày ấy” của phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, ông Ngô Sỹ Quốc, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND phường đã mời tôi đến thăm Xưởng sản xuất của Doanh nghiệp đúc gang Dũng Quý ở tổ 17.

Mặc dù từ đầu năm đến nay, mặt hàng gang đúc cũng gặp nhiều khó khăn về nguồn nguyên liệu đầu vào và thị trường xuất khẩu, nhưng khi đến Xưởng sản xuất của Doanh nghiệp (DN) chúng tôi thấy không khí làm việc ở đây vẫn sôi động; lò gang đang đỏ lửa rừng rực; bãi tập kết phế thải đầy ắp; các sản phẩm vừa đúc xong đang đợi đủ chuyến hàng là xuất xưởng. Ông Nguyễn Văn Tấu, Giám đốc Doanh nghiệp cho biết: DN ban đầu chỉ là một cơ sở đúc gang thủ công, được thành lập năm 1992 với các mặt hàng chủ yếu là đúc sản phẩm bằng gang phục vụ các công trình xây dựng trong nước. Giai đoạn 1996-2008, cơ sở đã mở rộng quy mô, mở rộng thị trường và xuất khẩu các mặt hàng trên sang Đài Loan, Nhật Bản. Từ năm 2009, cơ sở chuyển đổi thành DN. Năm 2010, DN đạt sản lượng 830 tấn sản phẩm, năm 2011 đạt 900 tấn; 8 tháng đầu năm nay đạt 400 tấn sản phẩm; thu hút từ 13 đến 15 lao động, với thu nhập bình quân từ 3 triệu đồng đến 4 triệu đồng/tháng. Đây là một trong những cơ sở sản xuất TTCN của “phường thợ ngày ấy” vẫn duy trì và phát triển khá tốt trong suốt 18 năm qua.

 

Qua tìm hiểu tôi được biết, trước năm 1986, Gia Sàng chỉ có nghề đan cót ở khối 3 ((nay là các Tổ 6 và Tổ 7) do bà con từ Hà Đông lên sinh cơ lập nghiệp làm. Với đặc điểm gần Nhà máy cán Gia Sàng nằm trên địa bàn phường và Công ty Gang thép nên từ năm 1986, Đảng bộ phường đã có chủ trương phát triển thêm ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) để khai thác tận dụng phế thải, phế liệu của các Nhà máy. Thế là có thêm một HTX  với nghề cơ khí ra đời, năm 1987 có thêm tổ hợp làm nghề đúc. Cứ như vậy, hoạt động TTCN ngày càng phát triển mạnh, chỉ sau 2 năm ( năm 1988) Gia Sàng đã có 13 đơn vị tập thể làm các ngành nghề mành cọ, đan lát, cơ kim khí, đúc gang… thu hút hàng trăm lao động. Sau đó, do cơ chế thay đổi, các tổ hợp tác chuyển đổi sang mô hình sản xuất ở từng gia đình với các sản phẩm TTCN ngày càng đa dạng, phong phú (tính đến năm 1991 có 6 lò sản xuất gang; 8 gia đình sản xuất gạch lát nền; 11 cơ sở sản xuất mộc; 4 lò rèn). Ngoài ra, có hàng trăm gia đình tham gia sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông sản thực phẩm như: bánh kẹo, đậu phụ, bánh mỳ, kem ..Cuối những năm 80 và 90 của Thế kỷ trước, Gia Sàng như một phường thợ, thật nhộn nhịp, tấp nập với lượng khách hàng trong và ngoài tỉnh đến mua bán mỗi ngày một đông.

 

Tuy nhiên, hoạt động sản xuất công nghiệp - TTCN của phường cũng có những bước thăng trầm, song nhờ có cơ chế khuyến khích hỗ trợ từ Trung ương, tỉnh, thành phố; chính sách đẩy mạnh cổ phần hóa các DN, sự giúp đỡ của địa phương và sự chủ động khai thác nguồn hàng, tiêu thụ sản phẩm của DN nên các mặt hàng truyền thống và thế mạnh của địa phương vẫn duy trì và mở rộng ngay cả những lúc khó khăn. Đặc biệt, từ năm 1999 đến nay, số lượng, quy mô các DN không ngừng được mở rộng với nhiều ngành nghề. Những năm gần đây, Gia Sàng còn là một trong những điểm thu hút đầu các dự  án về đô thị, dịch vụ và thương mại, trong đó nổi bật là Tổ hợp thương mại, dịch vụ, căn hộ cao cấp, văn phòng cho thuê APEC với số vốn đầu tư 1 nghìn tỷ đồng đang được triển khai. Bên cạnh đó là hàng loạt các dự án xây dựng khu dân cư như số 5, số 9, khu tái định cư Gia Sàng, gần đây nhất là Dự án khu đô thị Việt Bắc do Doanh nghiệp Thái Hưng là chủ đầu tư. Nếu như những năm 1994-1995 trên địa bàn phường số DN chỉ đếm trên đầu ngón tay, đến nay đã có trên 100 DN và 380 hộ kinh doanh đang hoạt động.   

 

Đạt được kết quả trên là do Đảng bộ phường đã biết phát huy lợi thế của một phường trung tâm gần các nhà máy sản xuất công nghiệp, có nhiều cơ quan, xí nghiệp, đông dân (trên 3.100 hộ, với khoảng 11 nghìn người). Từ đó, mỗi nhiệm kỳ Đảng bộ đều có định hướng phát triển đúng đắn. Ví dụ như: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV (1996-2000) là: “Đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình theo cơ cấu: TTCN-Thương nghiệp- dịch vụ và nông nghiệp hàng hóa”; Nghị quyết đại hội lần thứ XV (2000-2005) là: TTCN, thương mại dịch vụ và nông nghiệp hàng hóa”; Nghị quyết Đại hội XVI (nhiệm kỳ 2005-2010) : “Thương mại- Dịch vụ,TTCN và nông nghiệp”, Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ XVII (2010-2015) là: “Thương mại-dịch vụ, TTCN, nông nghiệp hàng hóa”. Đi đôi là biết tranh thủ các cơ chế chính sách của Nhà nước, Đảng bộ phường đã luôn khuyến khích tạo mọi điều kiện thuận lợi để các DN đầu tư vào phát triển SXKD, trong đó trọng tâm là các ngành nghề chính có thế mạnh của phường như: chế biến lâm sản, sản xuất VLXD, đúc gang, cơ kim khí, chủ động khai thác nguyên liệu, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Từ đó không chỉ các mặt hàng truyền thống vẫn dược duy trì và mở rộng quy mô mà còn thu hút thêm các hoạt động dịch vụ, thương mại phát triển, góp phần tăng thu  ngân sách, tạo việc làm cho người lao động tại địa phương. Giá trị sản lượng sản xuất TTCN luôn hoàn thành kế hoạch thành phố giao, chỉ tính từ năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp, TTCN đạt 6,5 tỷ đồng, đến năm 2011 đạt 449 tỷ đồng; kế hoạch năm 2012 là 380 tỷ đồng); riêng các hộ kinh doanh đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng tỷ đồng ( năm 2011 là 1,7 tỷ đồng).