Bắt nguồn từ sự việc ông Hà Văn Dễ cho ông Hà Văn Kệu cùng ở xóm Giếng, xã Hồng Tiến (T.X Phổ Yên) thuê đất sản xuất gạch nhưng sau đó đất lại đứng tên ông Kệu trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) khiến 2 bên gia đình nảy sinh tranh chấp. Sự việc mặc dù đã được chính quyền địa phương vào cuộc giải quyết nhưng ông Hà Văn Dễ vẫn chưa cảm thấy thỏa đáng.
Năm 1993, ông Hà Văn Dễ và ông Hà Văn Kệu có viết hợp đồng thuê đất sản xuất gạch nung. Trong hợp đồng xác định rõ ranh giới đất thuê từ phần bờ cao (taluy) giáp ranh đất nhà ông Hà Văn Lơ (em ruột của ông Hà Văn Dễ) đến đỉnh đồi Ràng Ràng ở xóm Giếng, thời gian thuê 5 năm. Ông Hà Văn Dễ cho biết: Thửa đất trên được tôi khai phá, sử dụng từ trước khi cho ông Kệu thuê hơn 20 năm. Sau khi chấm dứt hợp đồng thuê (năm 1999), gia đình tôi nhận lại đất để canh tác. Đến năm 2004 thì có người đến đòi đất của gia đình, lúc bấy giờ, tôi mới phát hiện thửa đất của gia đình đã được cấp GCNQSDĐ cho ông Hà Văn Kệu, ngày 17/5/2000, thửa số 433, tờ bản đồ số 39.
Trước sự việc này, ông Kệu thừa nhận có thuê đất của ông Hà Văn Dễ từ năm 1993 nhưng đã trả cho ông Dễ toàn bộ vào năm 1995. Đó cũng là thửa 433 và 1148, tờ bản đồ số 6, theo GCNQSDĐ và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông Hà Văn Lơ, cấp ngày 6/12/2013. Còn thửa 433, tờ bản đồ số 39 đứng tên ông Kệu thì trước đó thuộc quyền sử dụng của nhiều người. Trong đó, chỉ có khoảng 200m2 của ông Hà Văn Dễ.
Ông Kệu giải thích thêm về thửa đất 200m2: Vào năm 1995, do phát sinh mâu thuẫn trong thực hiện hợp đồng thuê nên ông Dễ có đơn trả lại đất trên cho UBND xã Hồng Tiến quản lý. Từ năm 1995-1999, ông Kệu thuê đất với xã để làm gạch nung. Khi chấm dứt hợp đồng, ông Kệu có đơn đề nghị và được chính quyền địa phương cấp GCNQSDĐ vào năm 2000.
Trước phản ánh trên của ông Kệu, chúng tôi đến tìm hiểu thực tế thửa đất 433 và 1148, tờ bản đồ số 6 của ông Hà Văn Lơ. Tại đây, ông Lơ khẳng định: 2 thửa đất này chỉ nằm giáp ranh thửa đất mà ông Dễ cho ông Kệu thuê để làm gạch nên không phải là một thửa như ông Kệu phản ánh.
Sau khi phát hiện mất đất, ông Hà Văn Dễ phản ánh sự việc đến các cấp chính quyền của T.X Phổ Yên. Năm 2007, Thanh tra huyện (nay là Thanh tra T.X Phổ Yên) vào cuộc và có Báo cáo số 45/BCKQXM, ngày 12/9/2007 kết quả thẩm tra, xác minh về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hà Văn Dễ. Theo đó, Thanh tra huyện bác bỏ việc ông Hà Văn Dễ đòi lại thửa đất 433, dựa trên những thông tin xác minh, trong đó có nội dung làm việc với xã Hồng Tiến như sau: “Năm 1995, xã Hồng Tiến đã lập biên bản xử phạt hành chính đối với ông Dễ và ông Kệu, tạm thu hồi toàn bộ diện tích đất trong hợp đồng mà hai bên đã sử dụng trái với các quy định của pháp luật về đất đai.
Trong quá trình chờ giải quyết, nếu hộ nào có nhu cầu sử dụng đất phải làm đơn được xóm xác nhận, UBND xã xem xét và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Vậy nhưng ông Hà Văn Dễ không có đơn đề nghị cấp quyền sử dụng đất, đồng nghĩa không có nhu cầu sử dụng đất mà gia đình ông có công khai phá”. Sau khoảng 1 tháng kể từ khi Thanh tra huyện có Báo cáo 45/BCKQXM thì có giấy viết tay của ông Hà Văn Dễ cam đoan chấm dứt khiếu kiện sự việc trên.
Trao đổi với chúng tôi, ông Dễ phản biện: Năm 1995, xã Hồng Tiến lập biên bản xử phạt hành chính, thu hồi đất nhưng tôi không được nhận quyết định xử phạt và quyết định thu hồi đất. Còn giấy cam đoan chấm dứt khiếu kiện không phải do tôi viết. Vì thế, suốt từ năm 2007 đến nay, tôi vẫn khiếu nại sự việc tới các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, thị xã vẫn căn cứ vào giấy cam đoan chấm dứt khiếu nạn để từ chối giải quyết sự việc. Chỉ mới đây (tháng 6-2021), sau khi tôi có đơn đơn lên cấp tỉnh, Thanh tra thị xã đã có buổi làm việc với tôi.
Tại buổi làm việc, ông Dễ đề nghị Thanh tra thị xã giám định chữ ký và chữ viết trong đơn cam đoan chấm dứt khiếu kiện; đồng thời làm rõ cơ sở cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 433, tờ bản đồ số 39 của ông Hà Văn Kệu vào năm 2000. Về việc này, theo ông Phạm Quang Thắng, Phó Chánh Thanh tra T.X Phổ Yên: Đối với nội dung khiếu nại của ông Hà Văn Dễ liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số 433, tờ bản đồ số 39 của ông Hà Văn Kệu thì Thanh tra huyện đã trả lời tại các văn bản từ năm 2009-2021. Còn với đề nghị giám định chữ ký và chữ viết của ông Dễ tại giấy cam đoan vào tháng 10-2007 thì chúng tôi sẽ hướng dẫn công dân thực hiện theo quy định.
Trước diễn biến của sự việc, thiết nghĩ, chính quyền địa phương cần làm rõ hơn căn cứ trong Báo cáo số 45/BCKQXM của Thanh tra huyện ngày 12/9/2007 kết quả thẩm tra, xác minh về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Hà Văn Dễ; giám định chữ ký trong giấy cam đoan chấm dứt khiếu kiện của ông Hà Văn Dễ. Nếu những căn cứ trong báo cáo chưa thực sự thỏa đáng và đơn cam đoan chấm dứt khiếu nại không phải do ông Hà Văn Dễ viết thì cần phải xác minh, làm rõ nguyên nhân để có cơ sở giải quyết dứt điểm sự việc trên.