Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ

14:39, 17/05/2011

TNĐT-  65 năm đã trôi qua kể từ ngày nhân dân cả nước nô nức đi bầu cử các vị đại biểu Quốc hội khóa I, Quốc hội đầu tiên của nước ta. Lịch sử đã chứng kiến các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội 12 khóa và đang chuẩn bị bầu cử đại biểu QH khóa XIII. Xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc một số thông tin về Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ.

 

QUỐC HỘI KHÓA I (1946-1960)

 

Quốc hội khoá I (1946-1960) bầu cử ngày 6-1-1946; Tỉ lệ cử tri đi bỏ phiếu: 89%; Tổng số đại biểu Quốc hội (ĐBQH): 403; Số ĐB được bầu: 333; ĐB không đảng phái: 43%; Số ĐB không qua bầu cử: 70 (thuộc Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội - Việt Cách, và Việt Nam Quốc dân Đảng - Việt Quốc, theo thoả thuận đạt được ngày 24-12-1945 với Việt Minh). Số ĐB không qua bầu cử này thể hiện chủ trương của Việt Minh về hoà hợp dân tộc, tập trung lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp.

    

Quốc hội khóa I là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, là mốc đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới. Quốc hội ra đời trong hoàn cảnh cuộc đấu tranh quyết liệt giành và bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Sự ra đời của Quốc hội vừa là thành quả vừa là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Quốc hội khóa I là Quốc hội của độc lập dân tộc, của thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân. Trong điều kiện cả nước vừa phải hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc vừa phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ, Quốc hội khóa I đã góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy, đưa miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Quốc hội đã thông qua danh sách Chính phủ đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua hai bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có bản Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên mở ra tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội khóa I kéo dài từ tháng 1-1946 đến tháng 5-1960, là do trong điều kiện đấu tranh cách mạng (kháng chiến chống Pháp, đấu tranh chống Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn), đất nước bị chia cắt, nên không thể tổ chức được một cuộc bầu cử trên cả nước để bầu Quốc hội khóa mới.

 

QUỐC HỘI KHÓA II (1960-1964)

 

Quốc hội khoá II (1960-1964) bầu cử ngày 8-5-1960; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 97,52%; Tổng số ĐB: 453; ĐB ngoài Đảng: 64; ĐB là cán bộ kinh tế, khoa học kỹ thuật (KT-KHKT): 66.

 

Quốc hội khóa II là Quốc hội hoạt động hoàn toàn trong thời kỳ đất nước bị chia cắt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay), nhân dân Việt Nam thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến hành sự nghiệp xây dựng xã hội mới Xã hội chủ nghĩa: miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và cùng miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hoạt động của Quốc hội khóa II đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng và khôi phục kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam; đã thực thi những chính sách về dân chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong điều kiện cực kỳ khó khăn; góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của chính quyền Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng đất nước ở miền Nam và đấu tranh thống nhất Tổ quốc.

 

Phó Chủ tịch Quốc Hội khóa XII Nguyễn Đức Kiên kiểm tra công tác chuẩn bị bầu cử tại Thái Nguyên

 

 

QUỐC HỘI KHÓA III (1964-1971)

 

Quốc hội khóa III có 453 đại biểu Quốc hội, trong đó có 366 đại biểu được bầu ngày 26-4-1964 và 87 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh miền Nam được lưu nhiệm.

 

Quốc hội khóa III, được tổ chức theo Hiến pháp năm 1960, là Quốc hội của thời kỳ đất nước thực hiện cả hai chiến lược cách mạng, thời kỳ chống Mỹ cứu nước “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để thắng giặc Mỹ xâm lược”. Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng. Cao trào thi đua yêu nước dâng lên mạnh mẽ chưa từng có. Hoạt động Quốc hội đã đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Quốc hội đã có những quyết sách phù hợp về dân chủ, quan tâm đến lợi ích nhiều mặt, hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của chính quyền Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Nhiệm kỳ của Quốc hội khóa III kéo dài từ tháng 6-1964 đến tháng 6-1971 là do hoàn cảnh có chiến tranh diễn ra trên phạm vi cả nước.

 

QUỐC HỘI KHÓA IV (1971-1975)

 

Quốc hội khoá IV (1964-1971) bầu cử ngày 11-4-1971; Tỉ lệ cử tr bỏ phiếu: 98,88%; Tổng số ĐB được bầu: 420; ĐB ngoài Đảng: 103; ĐB là cán bộ KT-KHKT: 53.

 

Quốc hội khóa IV đã tiếp tục động viên quân và dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng; ở miền Nam tăng cường đấu tranh giải phóng dân tộc, ở miền Bắc kiên trì bảo vệ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch, động viên sức người sức của cho tiền tuyến lớn đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Sau khi Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được ký kết, Quốc hội đã thông qua những biện pháp đấu tranh để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định. Đồng thời, Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng của Nhà nước nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng; tiếp tục sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cùng đồng bào miền Nam hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quốc hội khóa IV là Quốc hội chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, kiên trì và tiếp tục xây dựng Chủ nghĩa xã hội, là Quốc hội khôi phục kinh tế, hàn gắn những vết thương chiến tranh, chuẩn bị đưa đất nước tiến vào thời kỳ mới.

 

 QUỐC HỘI KHÓA V (1975-1976)

 

Quốc hội khoá V (1975-1976) bầu cử ngày 6-4-1975; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 98,26%; Tổng số ĐB được bầu: 424; ĐB ngoài Đảng: 110; ĐB là trí thức XHCN: 93. Quốc hội khoá V là Quốc hội ngắn nhất (từ tháng 4.1975 đến tháng 4.1976) vì đã rút ngắn nhiệm kỳ để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI - Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất.

 

Quốc hội khóa V được bầu trong không khí vui mừng, phấn khởi, đất nước sạch bóng quân xâm lược, nhân dân ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Quốc hội khóa V, bắt đầu nhiệm kỳ giữa lúc nhân dân ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cả nước thống nhất tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Quốc hội khóa V là Quốc hội đầu tiên của thời kỳ xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quốc hội khóa V thể hiện đầy đủ bản chất là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nông. Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, động viên nhân dân thi đua xây dựng đất nước, củng cố lực lượng quốc phòng. Quốc hội nhất trí phê chuẩn kết quả của Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, thể hiện ý chí mạnh mẽ, nguyện vọng thiết tha và sự nhất trí cao của toàn dân tộc về vấn đề thống nhất Tổ quốc trên cơ sở độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội.

 

Quốc hội quyết định kế hoạch Nhà nước năm 1976, năm thứ nhất của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, mở đầu thời kỳ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Quốc hội khóa V là quốc hội ngắn nhất, từ tháng 4-1975 đến tháng 4-1976, vì đã rút ngắn nhiệm kỳ để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của đất nước thống nhất.

 

           Đồng bào Xê Đăng, Kon Tum đi bầu cử Quốc hội khóa XII

 

QUỐC HỘI KHÓA VI (1976-1981)

 

Quốc hội khoá VI (1976-1981) bầu cử ngày 25-4-1976; Số cử tri bỏ phiếu: 23 triệu người; Tổng số ĐB được bầu: 492; ĐB ngoài Đảng: 94; ĐB là trí thức nhân sĩ: 98.

 

Trong điều kiện đất nước thống nhất, sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại là tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước - Quốc hội khóa VI. Quốc hội đã quyết định những vấn đề quan trọng hàng đầu trong thời kỳ phát triển mới của dân tộc; quyết định về đường lối, chính sách của Nhà nước Việt Nam thống nhất; quyết định xây dựng hiến pháp, về cơ cấu lãnh đạo của Nhà nước khi chưa có hiến pháp mới, bầu các cơ quan đó để điều hành công việc chung của cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, quốc ca và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới. Quốc hội quyết định đổi tên nước Viêt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định khóa Quốc hội được bầu trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 25-4-1976 là Quốc hội khóa VI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyết định chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn – Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mở ra cho bước phát triển mới trong quá trình đi lên của đất nước. Quốc hội khóa VI đã có những đóng góp tích cực vào việc xây dựng hệ thống chính quyền mới ở miền Nam, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất bảo vệ chính quyền trong điều kiện hòa bình, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI đã thông qua Hiến pháp năm 1980.

 

 QUỐC HỘI KHÓA VII (1981-1987)

Quốc hội khoá VII (1981-1987) bầu cử ngày 26-4-1981; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 97,96%; Số ĐB được bầu: 496; ĐB ngoài Đảng: 61; ĐB là trí thức nhân sĩ: 110.

 

Quốc hội khóa VII, được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1980. Quốc hội đã phát huy vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nhân dân trong việc củng cố và hoàn thiện chế độ làm chủ tập thể; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa Hiến pháp, từng bước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo tiền đề để Nhà nước thực hiện quản lý mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội đã thông qua một số Luật quan trọng như: Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Quốc hội khóa VII, là Quốc hội của thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới, đã đẩy mạnh công tác lập pháp, tăng cường công tác giám sát và việc quyết định các vấn đề quan trọng khác để đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước. Xác định nguyên tắc, phương hướng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.

 

QUỐC HỘI KHÓA VIII (1987-1992)

 

Quốc hội khoá VIII (1987-1992) bầu cử ngày 19-4-1987; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 98,75; Số ĐB được bầu: 496; ĐB ngoài Đảng: 31; ĐB là trí thức XHCN: 123.

 

Quốc hội khóa VIII được bầu ra và hoạt động trong giai đoạn bước ngoặt của đất nước, có trách nhiệm to lớn góp phần thực hiện công cuộc đổi mới. Hoạt động lập hiến của Quốc hội khóa VIII có nhiều thành tựu với 2 lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1980. Tại kỳ họp lần thứ 11, tháng 4-1992, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, phù hợp với thực tế của đất nước và xu thế tiến bộ của thời đại trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh, đặc điểm của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về trình độ lập hiến của nước ta. Quốc hội đã thực hiện sứ mệnh cao cả mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta về mặt Nhà nước. Tiến hành  đồng bộ và có hiệu quả các hoạt động nhằm thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định: Lập hiến, lập pháp, giám sát, quyết định, các vấn đề trọng đại về quốc kế, dân sinh, về đối nội và đối ngoại, trong đó đặc biệt là hoạt động lập hiến và lập pháp. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:  Kinh tế phát triển, văn hóa giáo dục đạt được nhiều kết quả tốt. Việc xây dựng và tăng cường Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có bước phát triển mới; quan hệ đối ngoại được mở rộng; quốc phòng an ninh được củng cố.

 

QUỐC HỘI KHÓA IX (1992-1997)

     

Quốc hội khoá IX (1992-1997) bầu cử ngày 19.7.1992; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 99,12%; Số ĐB được bầu: 395; ĐB ngoài Đảng: 33; ĐB có bằng đại học và trên đại học: 222.

 

Quốc hội khóa IX được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp năm 1992. Quốc hội khóa IX đã tiến hành đồng bộ và có hiệu quả các hoạt động nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về lập pháp, về giám sát và về quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Quốc hội khóa IX tiếp tục thể chế hóa cương lĩnh và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI và được Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện. Quốc hội đã phát huy vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

 

QUỐC HỘI KHÓA X (1997-2002)

 

Quốc hội khoá X (1997-2002) bầu cử ngày 20-7-1997; Tỉ lệ cử tri bỏ phiếu: 99,59%; Số ĐB được bầu: 450; ĐB ngoài Đảng: 68; ĐB có bằng đại học và trên đại học: 411.

 

Quốc hội khóa X là Quốc hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quốc hội khóa X có trọng trách tiếp tục thể chế hóa cương lĩnh và chiến lược của Đảng; cụ thể hóa đường lối chính sách mà Đại hội Đảng lần thứ VIII và lần thứ IX đề ra. Trong 5 năm qua, Quốc hội khóa X tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức của Quốc hội và đổi mới hoạt động lập pháp: Phân định phạm vi thẩm quyền lập pháp của Quốc hội, lập và quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đổi mới thủ tục, trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và Đại hội lần thứ IX của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

 

Các luật, pháp lệnh Quốc hội thông qua đều đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề bức xúc của cuộc sống và công cuộc phát triển của đất nước, đảm bảo tính đồng bộ, hợp hiến, hợp pháp. Quốc hội đã chú trọng xây dựng và ban hành các luật, pháp lệnh về lĩnh vực kinh tế, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế. Quốc hội khóa X tiến hành giám sát khá toàn diện việc thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ 5 năm, nhiệm vụ hàng năm và nhiều vấn đề quan trọng khác: Quốc hội đã thực hiện hình thức giám sát đi sâu khảo sát theo chuyên đề; kết hợp giữa việc giám sát tại kỳ họp với các hoạt động giám sát trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; giữa việc nghe báo cáo với việc cử đoàn đi địa phương, cơ sở làm việc với các Bộ, ngành, tổng công ty, nên hiệu quả hoạt động giám sát từng bước được nâng lên. Quốc hội đã xem xét, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và các hoạt động khác của công dân; dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước. Quốc hội khóa X đã đóng góp vào thành tựu của công cuộc đổi mới, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của  đất nước; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

QUỐC HỘI KHÓA XI (2002-2007)

 

Quốc hội khoá XI (2002-2007) bầu cử ngày 19.5.2002; Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 99,73%; Số ĐB được bầu là 498; ĐB ngoài Đảng chiếm 10,24%; ĐB có bằng đại học và trên đại học 465 người, chiếm 93,37%; ĐB chuyên trách là 118 người, chiếm 23,69%.

 

Quốc hội khóa XI là Quốc hội đầu tiên trong thiên niên kỷ mới. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước được triển khai toàn diện, mạnh mẽ nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đã để lại dấu ấn đậm nét về hoạt động lập pháp với sự tiến bộ cả về chất lượng và số lượng các dự án luật thông qua. Giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước có hiệu lực và hiệu quả hơn; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng chính xác và thực chất hơn.

 

QUỐC HỘI KHÓA XII (2007-2011)

 

Quốc hội khoá XII (2007-2011) bầu cử ngày 20-5-2007; Tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu là 99,64% (56.252.543 người); Số ĐB được bầu là 493; ĐB ngoài Đảng là 43 người, chiếm 8,72%; ĐB có bằng đại học và trên đại học là 473 người, chiếm 95,94%.