Có thể nói, các văn kiện của Đảng đã dành số lượng trang không nhỏ để bàn về đường lối phát triển giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh vai trò “quốc sách hàng đầu” của khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo, coi đây là tiền đề, là động lực then chốt để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… Nhờ vậy, trong những năm qua, nền giáo dục của cả nước nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng đã có những khởi sắc đáng kể. Là một đảng viên, một giảng viên trẻ của trường đại học còn “non trẻ”, tôi cũng được thừa hưởng những thành tựu to lớn ấy.
Tuy nhiên, với mong muốn thiết tha được đóng góp ý kiến nhỏ bé của mình trước thềm Đại hội Đảng XI, tôi muốn chia sẻ đôi dòng suy nghĩ, trăn trở của bản thân xoay quanh vấn đề giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học (NCKH) ở bậc đại học - nhìn từ thực tế các mô hình đào tạo trên địa bàn tỉnh.
Trước hết là vấn đề dạy - học. Hiện nay, toàn Đại học Thái Nguyên đang áp dụng mô hình đào tạo theo học chế tín chỉ. Những ưu thế của hình thức đào tạo này người ta đã bàn đến rất nhiều, nhưng những điều kiện thiết yếu để nó đem lại hiệu quả thì dường như chưa được quan tâm và đầu tư một cách thỏa đáng. Đặc điểm nổi bật của hình thức đào tạo này là mềm hóa quá trình đào tạo nhằm đề cao quyền lợi của người học, phát huy tối ta tính tích cực chủ động của người dạy và người học thông qua việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới phương pháp dạy - học. Nhưng có lẽ những điểm then chốt này đều chưa được đáp ứng tại các cơ sở đào tạo. Chẳng hạn, về cơ sở vật chất: Trong hệ thống các trường thành viên của Đại học Thái Nguyên, trừ vài trường có thâm niên, hầu hết các trường còn lại đều thiếu thốn về cơ sở vật chất (có trường thiếu một cách trầm trọng), dẫn đến hiện tượng quá tải. Đào tạo theo tín chỉ nhưng 1 lớp học phần thường ở mức trên dưới 100 sinh viên, thậm chí hơn 200 sinh viên (đặc biệt là với những môn học có tính chất đại cương). Tôi đã từng dạy một lớp tiếng Việt thực hành với số sinh viên là 216 em. Thực tế cho thấy, dù giáo viên có “tài quản lý và đổi mới phương pháp” đến đâu, dù sinh viên có “tích cực, chủ động” đến đâu cũng khó mà thích ứng được với những lớp học “khổng lồ” này. Bên cạnh đó phải kể đến sự thiếu thốn về trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy. Đơn cử như tại trường đại học của tôi, số lượng máy chiếu chỉ đếm được trên một bàn tay. Vì vậy, giảng viên muốn sử dụng phải đăng ký trước một tuần, thậm chí đăng ký trước nhưng chẳng may gặp phải máy “kém chất lượng” thì “có cũng như không”.
Trong công tác quản lý, học theo tín chỉ, sinh viên được chủ động về thời gian học (thậm chí học vượt) và được quyền lựa chọn giáo viên, nhưng hầu hết các trường đều chưa làm được điều này. Sinh viên vẫn “bị ép” học những môn “tự chọn” và đôi khi buộc phải học một số giảng viên còn “hạn chế về chuyên môn” với lý do chỉ có một môn để đăng ký học và chỉ có tên một giảng viên trong mục tự chọn… Thật hiếm đếm được số sinh viên học vượt, học nhanh so với chương trình đào tạo. Học theo tín chỉ, thời gian học trên lớp sẽ rút ngắn, thời gian tự học và thảo luận tăng, nhưng điều kiện thực tế chưa đáp ứng tốt cho việc tự học; năng lực của sinh viên còn hạn chế nên chất lượng đào tạo chưa được cải thiện là bao. Vì thế, mới có cảnh, Trường ĐHKTCN vào mùa hè mà sinh viên ở lại học cải thiện điểm đông như khi học chính khóa… Với sự “đầu tư” về điều kiện như vậy, liệu có thể mong chờ hay đòi hỏi một sự đột phá trong chất lượng giáo dục ở bậc đại học và liệu đào tạo ở bậc học này có thể “theo kịp” chứ chưa nói là “đón trước” nhu cầu của xã hội?
Cùng với giảng dạy, học tập, NCKH được coi là yếu tố cốt lõi thứ ba làm nên thương hiệu đào tạo của một trường đại học. Đây là động lực thúc đẩy niềm say mê nghề nghiệp trong mỗi giảng viên, giúp giảng viên làm chủ tri thức trên cơ sở độc lập suy nghĩ, sáng tạo, vận dụng hợp lý và hiệu quả tri thức vào bài giảng cũng như thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, nó còn giúp sinh viên tích lũy được những kiến thức chuyên môn; tổng hợp được nhiều kỹ năng cần thiết như sử dụng thư viện, Internet, tìm đọc và tổng kết tài liệu, xác định vấn đề, phương pháp thực hiện, làm việc nhóm... Vì thế, đổi mới phương pháp giảng dạy cần gắn liền với NCKH. Đầu tư cho NCKH cũng cấp thiết và quan trọng như đầu tư cho dạy - học. Nhưng trong thực tế, khi việc đầu tư cho giảng dạy, học tập còn bất cập như trên thì NCKH chưa nhận được sự quan tâm đúng mức cũng là điều dễ hiểu!
Tôi đã có cuộc trao đổi với một số giảng viên của Đại học Thái Nguyên. Anh N.T.A, giảng viên Khoa Công nghệ Thông tin cho biết: “Năm 2009, tôi hướng dẫn một nhóm sinh viên thực hiện đề tài “Xây dựng phần mềm bộ gõ tiếng Tày” được giải khuyến khích Sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc. Nhưng cả trường dường như chả ai quan tâm và chính tôi cũng không biết đến điều này. Khi một đồng nghiệp tình cờ biết được mới thông báo cho tôi”. Anh cũng cho biết thêm, việc mình hướng dẫn sinh viên chỉ đơn giản vì thấy sinh viên đam mê và có năng lực. Bản thân anh và những cán bộ hướng dẫn sinh viên NCKH như anh cũng không được hỗ trợ, khen thưởng hay ghi nhận gì về những thành tích này.
Chị T.H.B, giảng viên Trường Đại học Khoa học (ĐHKH) cũng tâm sự với tôi về một thực tế đáng buồn: “Sinh viên trường tôi muốn thực hiện đề tài NCKH dự thi các cấp thì phải tự túc về mọi mặt. Trong năm học 2009-2010, 2010-2011, một nhóm sinh viên lớp Cử nhân Văn K5 đã thực hiện 2 đề tài tham dự cuộc thi Sinh viên NCKH toàn quốc, trong đó đề tài “Một số biểu tượng văn hóa trong dân ca Mông từ góc nhìn văn hóa” đã đạt giải Ba năm 2009 (giải thưởng sinh viên NCKH cao nhất từ trước đến nay mà Trường ĐHKH đạt được). Khi thực hiện đề tài này, các em sinh viên hoàn toàn phải tự bỏ kinh phí để đi điền dã tại Sapa, Lào Cai, Cao Bằng, Mèo Vạc và một số nơi khác trong khoảng thời gian từ 2 đến 4 tuần. Cả dịp hè, một số em nhà xa phải ở lại trường, thuê nhà, thuê máy vi tính để hoàn thành đề tài dự thi cho kịp tiến độ”. Dĩ nhiên, giảng viên và sinh viên làm NCKH trước hết bằng năng lực và niềm đam mê, nhưng thiết nghĩ với điều kiện hạn hẹp, lại không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía nhà trường thì niềm đam mê ấy có thể luôn được duy trì và thắp sáng?
Từ thực tế trên, tôi cũng như nhiều giảng viên đều tha thiết mong rằng trong kỳ Đại hội sắp tới, Đảng ta sẽ có những chính sách về giáo dục và đào tạo gần với thực tế hơn nữa; cần coi trọng cả 3 mặt của giáo dục: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả, để giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.






