Hỏi - Đáp về nghị quyết và các văn bản, kết luận của Hội nghị Trung ương 9, khóa X (Phần 3)

15:52, 15/04/2009

Phần thứ ba:KẾT QUẢ 2 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 3, KHOÁ X “VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ” Tại Hội nghị Trung ương 9, khóa X, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận Báo cáo của Bộ Chính trị kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí”. Sau đây  là những nội dung chính.

Câu hỏi 1: Những kết quả bước đầu trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí qua hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa X  ?

Trả lời:
Những kết quả đạt được:
- Việc phổ biến, quán triệt, triển khai Nghị quyết được Ban Bí thư và các cấp ủy đảng khẩn trương thực hiện. Kết quả là nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân có chuyển biến tích cực.
- Công tác hoàn thiện thể chế đạt được những kết quả quan trọng, tạo cơ sở và hành lang pháp lý cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Hệ thống các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ Trung ương tới địa phương được thành lập và đi vào hoạt động.
- Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được tăng cường, việc xử lý nghiêm minh hơn.
- Các cơ quan báo chí, truyền thông có nhiều nội dung và phương thức hoạt động phù hợp, góp phần tích cực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Nhìn chung, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã có những chuyển biến tích cực cả nhận thức và hành động, đạt được những kết quả bước đầu. Trên một số lĩnh vực, tham nhũng, lãng phí có bước kiềm chế; số vụ việc tham nhũng, lãng phí lớn, nghiêm trọng, phức tạp xảy ra trong 2 năm qua có giảm hơn.

Câu hỏi 2: Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong việc thực hiện Nghị quyết trung ương 3, khóa X về phòng, chống tham nhũng, lãng phí ?

Trả lời:
Những hạn chế, yếu kém:
- Trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chuyển biến từ nhận thức thành hành động còn hạn chế.
- Việc tổ chức thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đồng đều, chưa sâu, nhiều nơi còn yếu.
- Tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ có chức vụ, quyền hạn còn yếu kém. Sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên còn hạn chế.
- Công tác kiểm tra, giám sát ở nhiều nơi còn yếu, thiếu chủ động, chưa thường xuyên; nhiều vụ án xử lý còn chậm, việc xử lý thiếu toàn diện và đồng bộ.
- Hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh và bộ phận giúp việc ở nhiều địa phương còn nhiều lúng túng. Sự chỉ đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu chưa tương xứng trên cả hai mặt phòng ngừa và phát hiện, xử lý.
 Nhìn chung, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt kết quả chưa đồng đều, chưa như mong đợi; tình hình tham nhũng vẫn còn diễn biến nghiêm trọng và phức tạp; tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức gây bức xúc trong nhân dân…gây tâm lý hoài nghi của một bộ phận nhân dân về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước.
Nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém:
- Cơ chế chính sách trên nhiều lĩnh vực còn sơ hở, bất cập, thiếu đồng bộ; năng lực và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn yếu kém.
- Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được phát huy đúng tầm, dẫn tới nhận thức và ý thức còn hạn chế, thiếu chủ động trong tổ chức thực hiện.
- Các hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên phạm vi rộng ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối tượng tham nhũng có tính đặc thù, vì vậy việc phát hiện và xử lý khó khăn, phức tạp.
- Nhiều cơ chế, chính sách về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí mới được ban hành, cần phải có thời gian mới phát huy tác dụng, hiệu quả.

Câu hỏi 3: Những thành tựu và hạn chế trong công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong 2 năm qua ?

Trả lời:
 Những thành tựu nổi bật:
- Công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong 2 năm qua đã được triển khai thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
- Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Thanh tra Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra của Bộ Công an... đã phối hợp với các cơ quan báo chí để chủ động cung cấp thông tin.
- Nhiều tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy có những loại hình tuyên truyền phù hợp.
- Nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được nâng lên, bước đầu tạo sự đồng thuận và quyết tâm trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nhiều trường chính trị cấp tỉnh và một số trường đại học đã đưa nội dung phòng, chống tham nhũng, lãng phí vào chương trình giảng dạy.
 Những hạn chế, yếu kém:
- Chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông chưa đồng đều, chưa thường xuyên, liên tục; ở nhiều nơi, nhất là ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức.
- Báo chí đưa tin về các giải pháp phòng ngừa, những nhân tố tích cực, những điển hình về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn ít, chủ yếu là đưa tin về các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí.
- Chưa tạo được sự chuyển biến từ nhận thức, để trở thành tính tự giác trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Câu hỏi 4: Công tác cán bộ đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong 2 năm qua có những tiến bộ và còn những hạn chế gì?

Trả lời:
 Những tiến bộ nổi bật là:
- Bộ Chính trị đã ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ. Các cấp uỷ đảng đã tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh các quy định về công tác cán bộ theo thẩm quyền nhằm đảm bảo tính công khai, dân chủ.
- Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đã được quy định.
- Việc chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức được triển khai thực hiện, trong đó tập trung ưu tiên chuyển đổi vị trí công tác trong các ngành nhạy cảm như: công an, thuế vụ, hải quan, kiểm lâm, địa chính...
- Việc minh bạch tài sản, thu nhập của đảng viên, cán bộ, công chức được thực hiện nghiêm túc hơn và số người kê khai nhiều hơn.
- Việc thực hiện Đề án cải cách chế độ tiền lương, việc nghiên cứu xây dựng các chế độ, chính sách đối với cán bộ được quan tâm nghiên cứu và đẩy nhanh hơn tiến độ thực hiện.
- Việc xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp ở nhiều bộ, ngành, cơ quan, tổ chức đã góp phần tạo sự thay đổi tích cực trong ứng xử, giao tiếp của cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công vụ, nâng cao chất lượng công tác.
 Những hạn chế, thiếu sót:
- Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí còn ít so với số vụ việc vi phạm. Nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản; hầu hết các cấp uỷ chưa công bố bản kê khai trong chi bộ và trong cấp uỷ như quy định của Nghị quyết Trung ương 3.
- Việc xây dựng quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp còn chậm; việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức còn lúng túng và thiếu kiên quyết.
- Nhận thức của đảng viên, cán bộ, công chức về tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng còn rất khác nhau, việc nộp lại quà tặng còn ít.