Với đặc thù là một xã thuần nông, xác định lấy sản xuất nông nghiệp là trọng tâm, những năm gần đây, xã Phúc Trìu (T.P Thái Nguyên) tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng, đặc biệt là thâm canh chè…
Để thấy rõ những đổi thay của vùng đất này, chúng tôi đến xóm Khuôn I, nơi có gần 100% đồng bào là người dân tộc Sán Dìu. Vài năm trước xóm là địa bàn khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí thấp, đời sống văn hóa tương đối nghèo nàn. Vừa dẫn chúng tôi tham quan một vòng quanh xóm trên những con đường bê tông sạch đẹp, qua những đồi chè đang tua tủa lộc xuân, ông Đặng Văn Lâm, Trưởng xóm Khuôn I vừa phấn khởi giới thiệu: Xóm có trên 15 ha chè kinh doanh, khoảng 2 năm trở lại đây, bà con rất tích cực đưa các giống chè cành có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất (từ năm 2009 đến nay, diện tích chè cành của xóm từ chỗ chưa đáng kể đã chiếm gần 70%), nhiều hộ gia đình đã chuyển đổi 100% diện tích sang trồng chè cành.
Cùng với đó, bà con cũng tích cực, chú tâm hơn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến chè. Vì vậy mà đời sống của nhân dân đã khởi sắc lên trông thấy, nhiều hộ làm được nhà kiên cố, mua sắm được những phương tiện sinh hoạt đắt tiền, số hộ nghèo trong xóm giảm từ 7 hộ năm 2010 xuống còn 3 hộ hiện nay. Ngoài ra, xóm hiện có tỷ lệ cơ giới hóa nông nghiệp cao nhất xã, đường làng ngõ xóm đã được cứng hóa gần 100%, trình độ dân trí và đời sống văn hóa tinh thần của người dân đã được nâng lên đáng kể…
Rời xóm Khuôn I, chúng tôi đến thăm một vài gia đình, những hộ đã mạnh dạn đi đầu trong việc chuyển đổi giống chè, trở thành những mô hình cho bà con trong và ngoài xã học tập. Ông Phạm Văn Lý, ở xóm Nhà Thờ đã nhận ra ưu thế của những giống chè mới và bắt đầu trồng chè cành từ 15 năm nay. Gia đình ông hiện có gần 4.000 m2 chè, với 100% là các giống Kim tuyên, LDP1, (cuối năm nay, ông có kế hoạch chuyển đổi khoảng 2.000 m2 sang trồng giống chè Phúc thọ đặc sản). Cùng với việc chuyển đổi giống chè, gia đình ông Lý cũng rất quan tâm đến khâu chăm sóc, chế biến để làm ra sản phẩm chè sạch, có chất lượng cao, nên giá bàn chè thường cao hơn các hộ khác từ 10 đến 15%. Từ số ít hộ chuyển đổi giống chè như gia đình ông Phạm Văn Lý, đến nay diện tích chè cành của xóm Nhà Thờ đã chiếm trên 70%.
Ông Trần Văn Tuyên ở xóm Thanh Phong còn phá bỏ trên 5.000 m2 chè trung du, chuyển sang trồng giống Kim tuyên. Hiện nay, trung bình mỗi lứa, gia đình ông thu được gần 2 tạ chè búp khô, cho thu lãi trên 100 triệu đồng/năm. Điển hình hơn cả là mô hình trên 10.000 m2 chè cành của gia đình ông Mạc Thanh Dương, Trưởng xóm Soi Mít, mỗi năm cho thu nhập trên 200 triệu đồng, là địa chỉ tham quan, học hỏi tin cậy của người làm chè trong vùng…
Trao đổi với ông Trịnh Văn Xuyên, Chủ tịch UBND xã Phúc Trìu, chúng tôi được biết: Vài năm trở lại đây, việc chuyển đổi cơ cấu giống chè đã thực sự trở thành một cao trào trong bà con nông dân. Để có được kết quả đó, ngoài việc tăng cường vận động, tuyên truyền, xã đã chú trọng xây dựng các mô hình điểm, giúp nông dân tiếp cận với sự hỗ trợ từ bên trên thông qua các đề án, dự án, các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật (trung bình mỗi năm có từ 4 đến 5 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật về chè, riêng năm 2011 có 7 lớp, thông qua các lớp đó, nông dân được tuyên truyền về ưu thế của những giống chè mới). Từ năm 2010 đến nay, xã đều có kế hoạch trồng mới, trồng thay thế xấp xỉ 20 ha chè/năm, và thường việc thực hiện vượt chỉ tiêu (năm 2011 đạt 23 ha). Những diện tích mới chuyển đổi từ vườn tạp và lúa một vụ sang chè, bà con đều trồng các giống chè cành. Vì vậy, diện tích chè cành đã chiếm gần 70% trong tổng số 350 ha chè kinh doanh của toàn xã (3 năm trước tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 30%), năng suất đạt 125 tạ/ha, giá trị sản phẩm trên 1ha chè đạt 90 triệu đồng (tăng 10 triệu đồng so với năm 2010).
Hiện nay, xã Phúc Trìu đã có 6 xóm được công nhận là làng nghề chè truyền thống, với tiềm năng về đất đai và lợi thế khi được nằm trong chỉ giới địa lý Vùng chè đặc sản Tân Cương, những năm tới, cây chè vẫn sẽ là cây trồng chủ lực được quan tâm phát triển.