
Trong những năm qua việc ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp ở huyện Đại Từ đã có bước tiến quan trọng, đạt hiệu quả trên hầu hết các lĩnh vực, làm thay đổi tư duy và phương pháp tổ chức sản xuất, kinh doanh của người dân.
Trong lĩnh vực trồng trọt, ứng dụng tiến bộ KHKT trong việc cải tạo bộ giống, các giống lúa lai có năng suất cao, chất lượng gạo ngon, thời gian sinh trưởng ngắn ngày đã được đưa vào canh tác như: Nhị ưu 838, TH3-3, Q ưu số 1, Syn 6… Các phòng chức năng đã hướng dẫn, chỉ đạo nông dân tuân thủ chặt chẽ quy trình kỹ thuật gieo cấy như: Bón phân, phòng trừ sâu bệnh, tuyển chọn cơ cấu giống lúa… Nhờ đó, diện tích thâm canh lúa cao sản năm sau cao hơn năm trước, năm 2007 đạt gần 4.000 ha, tăng 1.264 ha so với năm 2006.
Việc áp dụng KHKT trong sử dụng gieo mạ bằng khay thay cho cấy, gieo bằng phương pháp sạ hàng ở vụ xuân đã làm giảm 2/3 số lượng nhân công và làm tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. 100% diện tích ngô được gieo trồng bằng các giống ngô lai cho năng suất cao. Các giống cây màu mới được thị trường ưu chuộng đang từng bước thay thế giống cũ và được nhân rộng, một số vùng sản suất rau màu hàng hoá đang được hình thành (Hùng Sơn, Khôi Kỳ, Bình Thuận, Bản Ngoại, Hoàng Nông…).
Đối với cây chè, giống chè trung du dần được thay thế bằng các giống chè mới như LDP1, TR777, Keo am tích, Phúc vân tiên… với tổng diện tích trồng mới gần 1.000 ha; sản lượng chè búp tươi đã đạt gần 45.000 tấn, tăng hơn 7.000 tấn so với năm trước. Trong chế biến chè người nông dân Đại Từ đưa tôn quay sao chè bằng inox thay thế tôn cũ, nâng thời gian sử dụng của tôn từ 3 năm lên 10 năm, đồng thời nâng cao được chất lượng chè; việc đưa máy hái chè vào sản xuất cũng đã giải quyết được vấn đề giảm công lao động.
Trong chăn nuôi, huyện thực hiện các hình thức chuyển giao kỹ thuật và khuyến cao nông dân nên khâu giống đã có bước đột phá trong chăn nuôi lợn và một số loại gia cầm. Toàn huyện có 20% số hộ chăn nuôi lợn sử dụng giống lợn lai, lợn ngoại có năng suất, chất lượng thịt cao, thời gian xuất chuồng ngắn; các giống lợn có tỷ lệ nạc cao, có hướng xuất khẩu được đưa vào chăn nuôi ngày một nhiều, trọng lượng lợn xuất chuồng tăng bình quân 15-20%. Thời gian một chu kỳ chăn nuôi đã giảm 40-50% thời gian so với trước, tạo điều kiện cho các hộ chăn nuôi tăng quy mô đàn từ 1-3 lần, chăn nuôi theo hướng trang trại phát triển. Việc xây dựng hầm khí biôga, chăn nuôi thức ăn chế biến sẵn, xây dựng hệ thống máng uống nước sạch tự động… đã làm giảm ô nhiễm môi trường. Trong chăn nuôi gia cầm, các giống gà lông màu, gà ngoại, vịt, ngan lai cũng được nông dân chăn nuôi rộng rãi, chiếm trên 40% tổng đàn. Đàn bò đến nay đã được phát triển, cải tạo theo hướng sind hoá (hết năm 2007, toàn huyện đã có gần 400 bê cái lai sind để tạo thành đàn bò nái sinh sản)…
Đạt được những kết quả trên là nhờ trong những năm qua, việc chuyển giao KHKT đã được các cơ quan chyên môn của huyện Đại Từ thường xuyên tổ chức dưới nhiều hình thức như xây dựng các mô hình, ô mẫu ứng dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến. Canh tác giống mới, thâm canh cao sản, chăm sóc và phòng trừ dịch hại, ứng dụng kỹ thuật mới, kết hợp với việc thường xuyên mở các lớp tập huấn KHKT (trung bình mỗi năm năm tổ chức được 450-500 lớp, trong đó có 8-10 lớp tập huấn cho cán bộ khuyến nông cơ sở; xây dựng 15-17 mô hình, ô mẫu/năm).
Hiện nay, huyện Đại Từ đang tiếp tục quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá nông sản có giá trị kinh tế cao để có chính sách đầu tư KHKT một cách trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả; khuyến khích, mở rộng việc ứng dụng KHKT trong phát triển chăn nuôi, trồng trọt theo hướng trang trại; vận động, hỗ trợ nhân dân mua sắm các thiết bị máy móc nhằm thực hiện việc cơ khí hoá trong sản xuất, giảm sức lao động cho người nông dân…






