
Trong điều kiện hiện nay khi đất dành cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Phổ Yên ngày càng bị thu hẹp để ưu tiên phát triển công nghiệp, dịch vụ thì vấn đề đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn rất quan trọng. Với mục tiêu đạt 55.000 tấn lương thực/năm, Phổ Yên tích cực chỉ đạo bà con nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
Năm 2009, Phổ Yên khuyến cáo nông dân tập trung phát triển chăn nuôi, phấn đấu đưa tỷ trọng ngành chăn nuôi đạt 40% trong cơ cấu nội ngành nông nghiệp. Cùng với đó, nhu cầu thức ăn cho trên 13.500 con trâu, gần 12.400 con bò, 96.781 con lợn, 793.000 con gia cầm hiện có trên địa bàn toàn huyện là rất lớn. Cây ngô được lựa chọn là cây không chỉ cung cấp thức ăn tinh bột mà còn cung cấp thức ăn xanh cho trâu, bò, thuỷ sản. Vì vậy, những năm gần đây, huyện Phổ Yên liên tục gia tăng diện tích cây ngô và tích cực đưa những giống ngô mới cho năng suất, chất lượng vào gieo trồng phục vụ chăn nuôi.
Vài ba năm nay, những giống ngô lai LVN4, LVN45... đã xuất hiện khá quen thuộc trên những cánh đồng của Phổ Yên. Đặc biệt, vụ đông năm 2008, Trạm Khuyến nông huyện Phổ Yên đã đưa giống ngô lai LVN61 vào trồng khảo nghiệm lần đầu tiên trên đồng đất địa phương. Tuy là giống ngô mớ nhưng LVN61 được đông đảo bà con nông dân hưởng ứng và đăng ký gieo trồng với tổng diện tích lên tới trên 80 ha tại 8 xã, thị trấn như Tiên Phong, Tân Hương, Đồng Tiến, Hồng Tiến... Gần 100 kg ngô giống được Viện nghiên cứu ngô TW chuyển về địa phương. Những hộ tham gia mô hình khảo nghiệm được hỗ trợ 60% giá giống, 40% giá vật tư phân bón, được tập huấn chuyển giao KHKT...
Mô hình khảo nghiệm 20 ha ngô lai LVN61 ở xã Tân Hương có 200 hộ tham gia và giống đối chứng là LVN4. Các giống được gieo trồng trên đất 2 vụ lúa với thành phần là đất cát pha, nghèo dinh dưỡng, chủ động tưới tiêu, mật độ trồng từ 1.200 1.400 cây/sào. Thời vụ gieo trồng được tiến hành từ 20 đến 30/9/2008. Những hộ tham gia mô hình phải thực hiện bón phân đúng liều lượng, số lần bón theo quy trình hướng dẫn của Viện nghiên cứu ngô TW khuyến cáo như: 300-400 kg phân chuồng, 10-12 kg phân đạm, 15-20 kg lân super, 6-7 kg kali...
Tại hội thảo đầu bờ diễn ra ngày 12/1/2009 vừa qua đã cho kết quả: Giống LVN61 có thời gian sinh trưởng ngắn hơn giống đối chứng LVN4 từ 5 ngày trở lên, số lá trên cây là 16, các bắp đều đóng kín, tỷ lệ 2 bắp/cây đạt cao, khả năng chống chịu sâu, bệnh tốt, năng suất ngô đạt trên 60 tạ/ha (trong khi giống LVN4 đạt trên 50 tạ/ha). Bà Dương Thị Chai, Phó Trưởng trạm Khuyến nông huyện khẳng định: Đây là giống ngô chịu thâm canh, khả năng sinh trưởng khoẻ, có tiềm năng cho năng suất cao và phù hợp với cơ cấu chân đất 2 vụ lúa của địa phương.
Bà Nguyễn Thị Khánh, xóm Phong Niên, xã Tân Hương cho biết: Gia đình tôi trồng 1 mẫu LVN61. Năm nay, do thời vụ muộn so với cùng kỳ năm trước từ 7 đến 10 ngày, với tâm lý “tiếc đất”, vả lại giống đã mua rồi nên tôi “liều” đến ngày 3/10 vẫn gieo trồng. Âu lo lắm nhưng kết quả khiến tôi bất ngờ vì năng suất thu hoạch của gia đình vẫn đạt khoảng 2 tạ/sào, tương đương với những giống ngô khác như LVN4, LVN45. Còn ông Hoàng Đình Hào, Trưởng xóm Thái Cao, xã Tiên Phong cho biết: Toàn xóm tham gia mô hình khảo nghiệm trồng được khoảng 5 ha ngô LVN61. Với kinh nghiệm gieo trồng, bà con chòm xóm cho rằng đây là giống ngô dễ trồng và chăm sóc, hạt đóng kín, tỷ lệ 2 bắp cao, năng suất vào 2 tạ/sào... Với nhiều ưu điểm như vậy, chắc chắn những vụ sau bà con trong xóm sẽ mở rộng diện tích trồng cây vụ đông bằng giống LVN61.
Tuy nhiên, bà Dương Thị Chai cũng cho biết: Đây là lần khảo nghiệm đầu tiên đưa giống LVN61 về với đồng đất Phổ Yên và đã đạt hiệu quả cao như mong muốn. Để có đánh giá chính xác các chỉ tiêu của giống trước khi đưa ra sản xuất đại trà, chúng tôi mong muốn Viện nghiên cứu ngô TW hỗ trợ kinh phí khảo nghiệm tiếp trong vụ sau với diện tích quy mô rộng hơn. Đồng thời, đề nghị UBND các xã, thị trấn thực hiện mô hình chỉ đạo khoanh vùng, chọn hộ và yêu cầu các hộ nông dân nghiêm túc thực hiện quy trình đã đề ra...






