
Hàng chục năm ấp ủ, vượt qua vô vàn thách thức khách quan, chủ quan và sau 2 năm khẩn trương xây dựng, hôm nay ngày 22/02, Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất sẽ ra lò mẻ sản phẩm đầu tiên. Sự kiện này tạo dấu ấn lịch sử và là sự kiện trọng đại trong ngành dầu khí Việt Nam. NMLD Dung Quất sẽ tạo động lực phát triển cho các tỉnh miền Trung, góp phần bình ổn thị trường xăng dầu trong nước…
Một dự án chiến lược...
Việc xây dựng NMLD là một dự án chiến lược với Việt
Dự án hình thành vào đầu những năm 1990. Hợp đồng chính xây dựng NMLD Dung Quất đã được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ký với Tổ hợp nhà thầu Technip gồm các nhà thầu Technip (Pháp), Technip (Ma-lai-xi-a), JGC (Nhật Bản) và Tecnicas Reunidas (Tây Ban Nha). Có thể nói đây là cơ hội để các nhà thầu Việt
Được xây dựng trên diện tích gần 800ha gồm cả mặt đất và mặt biển, khối lượng công việc thật khổng lồ. Dự án phải xây dựng 14 phân xưởng công nghệ, trên 30 hạng mục hệ thống/phân xưởng phụ trợ và các hạng mục công trình biển (tổng số tài liệu thiết kế và sổ tay vận hành chất đầy khoảng 100 xe tải); diện tích các gói thầu chính xấp xỉ 600ha (tương đương với 1.200 sân bóng đá); hơn 150.000 tấn vật tư, thiết bị; hơn 5 triệu mét dây cáp điện (đủ để căng hơn 2 lần từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh); gần 17.000 tấn thép các loại… Để có được quy mô lớn của NMLD Dung Quất như hôm nay, hơn 7.000 chuyên gia, kỹ sư, công nhân, 67 nhà thầu trong, ngoài nước đã phải làm việc liên tục trong 1.000 ngày đêm và 178 ngày đêm nước rút để đưa Nhà máy về đích đúng tiến độ.
Công cụ hữu hiệu để bình ổn thị trường xăng dầu
Theo Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn (đơn vị quản lý, vận hành NMLD Dung Quất), với công suất 6,5 triệu tấn/năm, Dung Quất sẽ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu sử dụng xăng dầu trong nước, từng bước bảo đảm an ninh năng lượng, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng dầu từ nước ngoài, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Khi vận hành công suất ở mức 100% (dự kiến tháng 8 năm nay), mỗi tháng, Nhà máy sẽ sản xuất gần 150.000 tấn xăng, 240.000 tấn dầu diesel, khoảng 23.000 tấn LPG và các sản phẩm khác như Propylene (hơn 8.000 tấn), xăng máy bay Jet-A1 (khoảng 30.000 tấn) và dầu F.O (khoảng 25.000 tấn). Dự kiến, năm nay Nhà máy sẽ sản xuất khoảng 2,6 triệu tấn sản phẩm các loại. Doanh thu hằng năm đạt hơn 55.000 tỷ đồng, trong đó xăng chiếm khoảng 19.000 tỷ đồng, dầu diezel ô tô chiếm khoảng 26.000 tỷ đồng (chưa kể đến doanh số của nhà máy sản xuất polypropylene), từ đó sẽ giảm đáng kể tỷ lệ nhập siêu của quốc gia. Nhà máy sẽ giải quyết việc làm cho hơn 1.000 lao động trực tiếp, hàng ngàn lao động gián tiếp trong khu công nghiệp, cũng như thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển... Giá các loại sản phẩm do Nhà máy sản xuất sẽ cơ bản bảo đảm cạnh tranh so với giá nhập khẩu từ các nước trên thế giới như Nga, Trung Đông. Do NMLD Dung Quất không bảo đảm đủ 100% nhu cầu nội địa, nên giá các loại sản phẩm do Nhà máy cung cấp về cơ bản sẽ tương đương giá nhập khẩu của các công ty xăng dầu đầu mối ở cùng thời điểm, điều này nhằm bảo đảm tính thống nhất của thị trường, tránh xáo trộn. Theo Nghị định số 55/CP, cơ chế giá xăng dầu của Nhà máy không hoàn toàn theo cơ chế thị trường, mà là bán thị trường, với nguyên tắc Nhà nước can thiệp để điều tiết. Khi giá xăng dầu thế giới tăng cao, Nhà nước có thể sử dụng xăng dầu dự trữ tại Dung Quất, giảm giá bán tại đây để điều hòa giá trong một thời gian nhất định. Như vậy, thời gian tới Nhà máy sẽ là công cụ bình ổn giá xăng dầu.
Động lực phát triển kinh tế địa phương
Dự án NMLD Dung Quất đang là hạt nhân công nghiệp, tạo đà cho phát triển toàn diện các ngành công nghiệp và kinh tế của khu vực, đáp ứng được mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực miền Trung, bảo đảm cho sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền của đất nước. Với sự ra đời của Nhà máy, chỉ tiêu tăng trưởng GDP của tỉnh Quảng Ngãi trong năm 2009 dự kiến sẽ gấp đôi năm 2008 (21-22%). Khi đi vào hoạt động, NMLD Dung Quất sẽ tạo ra một sức hấp dẫn lớn với các dự án đầu tư vào Khu kinh tế Dung Quất trên các lĩnh vực công nghiệp hóa chất; cơ khí, chế tạo và lắp ráp; vận tải; điện tử… trong đó có không ít dự án FDI có vốn đầu tư lớn đã khởi công xây dựng như dự án nhà máy công nghiệp nặng của Tập đoàn Công nghiệp nặng Doosan (Hàn Quốc), nhà máy cán thép của Tập đoàn Quảng Viên (Trung Quốc)…; đồng thời giải quyết có hiệu quả các nhu cầu về việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách và phát triển các ngành dịch vụ khác của địa phương.





