
Thực hiện cơ chế khoán biên chế và kinh phí hoạt động hay còn gọi là công tác KBC&KP, từ năm 2005, Kho bạc Nhà nước (KBNN) Thái Nguyên đã triển khai thực hiện cơ chế trên đến các đơn vị trực thuộc trong Kho bạc.
Để đảm bảo công tác KBC&KP đạt hiệu quả cao, đúng chế độ, KBNN đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện KBC&KP; xây dựng và ban hành các văn bản về công tác KBC&KP giai đoạn 2005-2008. Đồng thời triển khai, phổ biến, học tập, quán triệt đến toàn thể đội ngũ cán bộ công chức(CBCC) cùng tham gia nghe, thảo luận, đóng góp ý kiến về các biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi trong nội bộ đơn vị; các quy chế quản lý, định mức chi tiêu để tạo ra nhận thức, nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân cùng thực hiện.
Năm 2005, KBNN được giao chỉ tiêu biên chế là 190 người, chỉ tiêu giao khoán 196 người. Để có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công việc trong điều kiện cán bộ, công chức (CBCC) không tăng nhưng khối lượng công việc liên tục tăng, tính chất công việc ngày càng phức tạp, nên ngay từ khi triển khai thực hiện cơ chế khoán, KBNN đã tập trung vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cho hàng trăm lượt CBCC về trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, tin học và bổ túc mới cho từng loại đối tượng phù hợp với chức danh, tiêu chuẩn, đào tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý và thực hiện luân chuyển cán bộ ở các phòng, các KBNN trực thuộc. Cán bộ đã qua đào tạo, bồi dưỡng được bố trí công việc phù hợp với trình độ năng lực.
So với yêu cầu công việc hiện nay, trình độ chuyên môn hiện có của đội ngũ CBCC đã đảm đương khá tốt công việc được giao. Việc giao khoán chỉ tiêu biên chế đã tạo điều kiện cho các đơn vị trực thuộc rà soát, bố trí cán bộ vào các vị trí thích hợp, đảm bảo khối lượng công việc được giao. Bên cạnh đó, KBNN đã thực hiện công khai tài chính theo các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính. Công khai công tác cán bộ bằng việc lấy ý kiến hàng năm đánh giá, nhận xét cán bộ, cán bộ trong quy hoạch; công khai chỉ tiêu tuyển dụng công chức, điểm thi tuyển; thực hiện kiểm tra theo kế hoạch và theo chuyên đề để phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những tồn tại, sai sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Vì thế, đội ngũ CBCC từ năm 2006 đến nay không tăng, trong khi khối lượng công việc tăng nhưng KBNN vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong thực hiện tiết kiệm chi, KBNN đã thực hiện giao khoán biên chế và kinh phí hoạt động cho Văn phòng và các KBNN trực thuộc. Trên cơ sở mức kinh phí giao khoán, các KBNN trực thuộc đã chủ động sắp xếp, bố trí kinh phí để đảm bảo kinh phí cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ. Đồng thời triển khai nhiều biện pháp nhằm tiết kiệm kinh phí như: Tiết kiệm điện thoại, điện thắp sáng, nước; vật tư, văn phòng phẩm; chi hội nghị; chi công tác phí; quản lý và sử dụng tài sản công; mua sắm tài sản, phương tiện làm việc theo đúng kế hoạch, định mức, tiêu chuẩn và quy định của Nhà nước; thực hiện triệt để việc tiết kiệm sử dụng năng lượng, xăng dầu. Qua đó, công tác tiết kiệm chi ở các đơn vị thực hiện khá tốt: Năm 2005 kinh phí tiết kiệm được trên 789 triệu đồng; năm 2006 tiết kiệm gần 349 triệu đồng; năm 2007 tiết kiệm trên 438 triệu đồng; năm 2008 tiết kiệm trên 461 triệu đồng.
Nhờ tiết kiệm chi nên KBNN đã có điều kiện bổ sung vào quỹ phát triển của ngành; tăng thu nhập cho người lao động và hỗ trợ cho hoạt động của các đoàn thể (riêng năm 2008 bổ sung vào quỹ phát triển ngành gần 90 triệu đồng; bổ sung thu nhập gần 27 triệu đồng; hỗ trợ đoàn thể là 63 triệu đồng).
Tuy nhiên, theo anh Hà Đăng Thành, Phó Giám đốc KBNN cho biết: "Việc thực hiện khoán biên chế và khoán kinh phí giai đoạn 2005-2008, Kho bạc đã đảm bảo hoàn thành tốt công việc được giao, tiết kiệm lao động, kinh phí. CBCC đã thực sự phấn khởi, tin tưởng vào cơ chế khoán. Song, trong quá trình thực hiện cũng còn những hạn chế như: Các văn bản hướng dẫn của ngành không kịp thời lại hay thay đổi nên khó triển khai thực hiện. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Một số cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác; yêu cầu và khối lượng công việc, nhiệm vụ tăng thêm, sử dụng kinh phí tăng thêm qua các năm, nên kinh phí tiết kiệm chi cũng giảm; mức kinh phí khoán còn thấp so với yêu cầu công việc.
Năm 2008, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, KBNNTN triển khai thực hiện tiết kiệm chi 10% kinh phí thường xuyên ngân sách Nhà nước; giá cả các mặt hàng tăng cao nên phần nào cũng gây khó khăn cho việc quản lý, điều hành ngân sách đã phân cấp tại các đơn vị cơ sở".
Với mục tiêu: Giao khoán biên chế là nhằm sắp xếp, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ CBCC, tiết kiệm chi, năm 2009, KBNN tiếp tục đề ra những giải pháp tích cực để nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu công việc. Đó là tiếp tục sắp xếp, điều động, bố trí công việc và luân chuyển cán bộ phù hợp với trình độ, ngạch bậc hiện hưởng. Thực hiện tinh giản biên chế theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, đảm bảo xây dựng đội ngũ CBCC có chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC về mọi mặt, nhằm đáp ứng năng lực quản lý, điều hành, thực thi công việc và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá công nghệ quản lý và những nhiệm vụ mới của ngành.
Trong tiết kiệm chi, tiết tục quản lý chặt chẽ và thực hành tiết kiệm trong sử dụng kinh phí, nhất là các khoản chi tiêu hành chính để dành vốn ưu tiên cho mục tiêu đầu tư phát triển và góp phần phục vụ tốt hơn hoạt động chuyên môn và cải thiện điều kiện làm việc, tăng thu nhập, nâng cao từng bước đời sống vật chất, tinh thần cho CBCC. Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở vật chất, đáp ứng điều kiện làm việc cho CBCC. Thực hiện công khai dân chủ trong phân phối, quản lý và sử dụng kinh phí giao khoán cho các KBNN trực thuộc và Văn phòng KBNN tỉnh bằng các hình thức thông báo bằng văn bản; niêm yết công khai, thông báo trong hội nghị CBCC…Đi đôi là công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản của nhà nước liên quan đến thực hiện cơ chế khoán biên chế và kinh phí hoạt động; kiện toàn, thành lập Ban chỉ đạo thực hiện cơ chế quản lý tài chính và biên chế hoạt động của ngành trong những năm tiếp theo. Tổ chức tốt các phong trào thi đua, động viên CBCC tham gia đề xuất các giải pháp, sáng kiến và thực hành tiết kiệm để tăng nguồn thu, quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí đảm bảo mục tiêu tiết kiệm, có hiệu quả.





