
Chàng trai trẻ Trương Văn Trị, xã Nam Chính, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vượt qua bao vất vả, thử thách đã thành công trong việc thuần hóa cá vược, đưa giống cá có tiếng là “bất kham” trở thành mặt hàng có giá trị kinh tế cao.
Cái khó ló cái khôn
Anh Trương Văn Trị cắp rổ cá tạp ra bờ ao rồi lấy một thanh tre gõ vào chiếc “mõ” tự tạo là một viên gạch. Tiếng kêu của mõ vang lên khô khốc. Anh thả từng con mồi xuống. Mặt ao đang trong xanh, phẳng lặng bỗng tung toé bọt nước trắng xoá. Những con vược vảy óng ánh bạc, giương những sống lưng nhọn hoắt, xông vào nhau giành giật miếng mồi. Tiếng quẫy nước ùm ùm, tiếng cá đớp mồi nghe sướng tai. Chẳng mấy chốc những vụn cá cuối cùng cũng hết. Lũ vược lại tản ra, trả lại mặt nước vẻ tĩnh lặng. “Cá vược ăn theo đàn, ăn đúng giờ, đúng điểm, đúng theo tiếng gõ mõ, đúng kích cỡ mồm. Tất cả cứ răm rắp. Nếu bỏ thức ăn ra ngoài hoặc cho ăn khác giờ nó không ăn đâu, phải mất rất lâu mới huấn luyện được thói quen cho chúng như vậy đấy” - Trị nhỏ nhẹ. Rời khu cá thịt, chúng tôi sang khu cá mới ươm. Trông một con vược bé tẹo bằng ngón tay đang bơi lờ đờ, Trị phán đoán nó đã mắc bệnh tiêu chảy vì thân cá đã chuyển sang màu xanh đen.
Loại bỏ con bị bệnh ra, chiếc vợt trong tay Trị vục lên được một con vược rất nhỏ khác, anh bảo tôi: “Con này vừa thoát khỏi mỏ chim bói cá. Đây anh xem, hai sống lưng nó còn trầy xước theo vệt mổ của con chim”. Tôi nhìn theo tay anh, quả thực trên lưng con cá có vết xước đều ra hai bên rất mờ. Mới hay, những dấu vết dù rất nhỏ của đàn cá vược cũng không thể qua được cặp mắt tinh tường của chàng trai này.
Gốc gác thuần nông tại Nam Chính, học xong Cao đẳng Nuôi trồng thuỷ sản, Trương Văn Trị xin làm thuê cho Cty Việt Mỹ, rồi Viện Nghiên cứu thuỷ sản I chỉ để “dắt lưng vốn” kiến thức chuyên môn, rồi tự lập. Năm 2005, anh đấu thầu được 1ha đất hoang ven sông Lân với giá 5 triệu đồng vay từ quỹ người nghèo. Đấu xong đất cũng là hết sạch tiền, chẳng biết xoay xoả thế nào mà đào ao, dựng trại. Bao ngày đêm vắt óc, Trị nghĩ ra cách “lấy mỡ nó rán nó”, cho các lò gạch để đỡ mất công đào ao.
Liên hệ với một Cty của huyện để thuyết phục cho họ đất, ai ngờ Giám đốc Cty này còn trả 3.000đ/m3 khiến Trị mừng húm. Nhưng niềm vui ấy chẳng kéo dài được lâu khi khai thác được 2 ao thấy khó quá, Cty này bèn rút quân. Cạy cục Cty thứ hai, họ đồng ý, làm được hai buổi thấy đất xấu, “khó nhằn” quá, cũng tìm cớ thu máy móc về. Bực mình, Trị tự thuê một lúc 7 xe, quật đất rồi chở đi bán cho các lò gạch. Trừ tất tật tiền máy móc, tiền “rải đường”, tiền chi phí nhân công, mỗi m3 Trị vẫn được 3.000đ. Những cái ao liên tiếp được ra đời nhờ diệu kế “mỡ nó rán nó” như vậy. Số tiền dư ra vừa đủ cho Trị đắp bờ, dựng một cái trại lợp prô-xi măng trên nền đất.
Làm giàu sau 3 lần thất bại
Cạn tiền. Cái trại không có cửa mà chỉ che tạm bằng tấm lợp, gió lùa thông thống. Một mình một chiếu, một chăn, một chiếc giường đi mượn giữa khu bãi đầy mồ mả và cỏ dại, Trị bắt đầu nuôi mộng làm giàu.
Lúc đầu đào ao, anh chỉ nghĩ đến sản xuất cá truyền thống nhưng nuôi loại đó đòi hỏi diện tích lớn, lao động nhiều mà thu nhập chẳng được bao nhiêu. Chính vì thế, Trị cứ trăn trở mãi. Một lần đọc tài liệu của nước ngoài thấy có nhà khoa học viết về chuyện tình cờ thấy cá vược trong môi trường nước ngọt.
Cá vược là mặt hàng đặc sản, thịt thơm ngon, không xương dăm, xương ngang, không một loài cá nước ngọt nào sánh được, hiệu quả kinh tế gấp 3 - 4 lần cá nước ngọt. Giá lúc cao nhất là 150.000đ/kg. Ký ức hồi nhỏ chợt hiện về: “Bố tôi hồi xưa đi biển đánh cá, những con cá, tôm nhỏ tôi vẫn thường nghịch đem thả xuống ao nhà. Đa phần chúng đều chết, làm mồi cho cá nước ngọt. Năm đó, nhà tôi tát ao, đang quây lưới bỗng thấy ùm ùm, chạy lại hoá ra thấy một con cá vược rất lớn. Cá vược sống được ở nước ngọt nhưng từ trước đến nay chưa có quy trình chuẩn để thuần hoá, nuôi chúng mà thôi”.
Nghĩ là làm, Trị vét đến cả cái nhẫn, cái vòng bố mẹ, họ hàng cho làm của hồi môn lúc cưới để nhập cá vược gốc Thái Lan về thuần hoá bằng cách cho vào thùng xốp rồi cho nước ngọt vào dần dần. Trị cũng hì hụi luộc cá nhỏ làm thức ăn chăm chút cho lũ vược con. Vừa nuôi anh vừa tấp tểnh sang tận
Trong nuôi cá, vấn đề thức ăn rất quan trọng. Thời kỳ anh bắt đầu nuôi, thức ăn cho cá giá rất cao. Phải làm thế nào để vượt qua “cửa ải” này? Trị đã quyết tâm làm luôn thức ăn cho cá. Anh nói: “Trong nuôi trồng thủy sản. Thức ăn là một trong những khâu quyết định, thế nhưng nếu cứ đi mua với giá cao mãi thì cũng chỉ như bao người khác, không thể vượt qua được khó khăn…”.
Ở vùng biển, sẵn cá tạp giá bán chỉ trên 3.000đ/kg, Trị mua cả tấn về trữ đông để cho cá ăn dần mà không dùng bất kỳ thức ăn công nghiệp nào. Cứ 5 - 6kg cá tạp được 1kg cá vược thịt, cộng cả chi phí giống vào nữa giá thành 1kg cá thương phẩm chỉ vào cỡ 30 - 35.000đ, trong khi bán được cỡ 80.000đ là lãi. Vừa làm, vừa đúc rút kinh nghiệm từ những thất bại xương máu, đến lần thứ ba thuần hoá theo công thức mới của riêng mình, thành công đã đến với Trị khi cá nuôi được trong nước ngọt đạt 100%, tốc độ lớn rất nhanh.
Không chỉ làm kinh tế cho bản thân, anh Trị còn giúp nhiều người nông dân cùng vượt qua khó khăn, thoát nghèo. Gia đình ông Phạm Ngọc Quyết, thôn Vạn Linh, xã Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng trước kia rất nghèo, cả nhà chỉ có mấy sào ruộng. Cuộc sống vất vả khiến ông mày mò đi nuôi trồng thủy sản. Thế nhưng làm mãi cũng không thành công. Được anh Trị giúp đỡ về con giống, truyền đạt kỹ thuật, ông Quyết quyết tâm theo con cá vược. Đến nay, từ một nông dân nghèo, ông Quyết có cửa hàng bán cá trên thành phố Thái Bình, cuộc sống rất sung túc. Ông Phạm Ngọc Quyết nói: “Trước tôi cũng nuôi nhiều loại cá nhưng kết quả cũng không được như ý. Từ khi làm với anh Trị, tôi thu được kết quả rất tốt, so với cây lúa trước kia đã gấp 20 lần…”
Từ thành công trong việc thuần hoá cá vược, anh Trị đã cung cấp giống cá cho cả vùng, rồi cả vài tỉnh phía Bắc, chứ chưa cần phải đi bán xa. Thu nhập một năm với quy mô 1ha, anh lãi trên 300 triệu đồng. Hiện nay, anh Trị đang đấu thầu một khu trại thật lớn gần khu cảng cá Nam Thịnh để nghiên cứu cho đẻ của nhiều loại cá biển trong đó cá vược là con chủ lực…



