
Cho đến nay, đã gần hai tháng một số Ngân hàng trên địa bàn Thái Nguyên thực hiện hỗ trợ lãi suất (HTLS) cho các tổ chức, cá nhân vay vốn sản xuất kinh doanh (SXKD) theo Quyết định 131 QĐ-TTg, ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhìn chung, với gói "kích cầu" này đã và đang phát huy tác dụng tốt: không những góp phần không nhỏ giúp các tập thể, cá nhân SXKD giảm được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động mà còn làm cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng đã có phần sôi động, khởi sắc hơn so với thời điểm cùng kỳ năm trước.
Ông Văn Tiến Đức, Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT), Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Kim khí Bắc Thái (viết tắt là Công ty Kim khí) tâm sự: năm 2008 là năm khó khăn nhất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thép và phôi thép. Công ty Kim khí không nằm ngoài quy luật chung ấy. Do giá cả biến động thất thường, đầu năm giá lên cao Công ty có lãi khoảng 2 tỷ đồng, quý IV - 2008, giá thép và phôi thép xuống mạnh, hàng không bán được nên Công ty bị tồn kho tới 600 tấn. Bên cạnh đó, lãi suất ngân hàng lên cao đã làm cho Công ty thua lỗ tới 1,1 tỷ đồng (tính cả năm, nhưng tập trung chủ yếu vào những tháng cuối năm); lãi gộp trong SXKD được 9 tỷ đồng thì phải trả lãi ngân hàng tới 3,3 tỷ đồng. Bước sang tháng 1/ 2009, Công ty tiếp tục gặp khó khăn vì hàng không bán được, lãi suất ngân hàng tuy có hạ nhưng vẫn ở mức lãi suất 1,3%/tháng. Từ đầu tháng 2/2009, được Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh (NHNo) cho vay 80 tỷ đồng theo lãi suất hỗ trợ 4%/năm, đồng thời, Công ty đã ký được một số hợp đồng tiêu thụ hàng hoá với Công ty Gang thép Thái Nguyên nên SXKD đã thuận lợi hơn. Quý I- 2009, Công ty đạt doanh thu 130 tỷ đồng (kế hoạch đề ra là 90 tỷ đồng). Vì vậy, vốn HTLS của ngân hàng đã thực sự giảm gánh nặng về tài chính cho doanh nghiệp. Nếu ngân hàng vẫn giữ mức lãi suất cũ, chắc chắn doanh nghiệp khó vượt qua.
Ông Nguyễn Đình Ngoạt, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Vật tư nông nghiệp tỉnh cho biết: với đặc thù của đơn vị là kinh doanh các mặt hàng phân bón các loại nên "mua đuổi bán đuổi" , không để tồn kho lâu ngày, vì vậy năm 2008 không bị thua lỗ lớn. Tuy nhiên, nếu giá cả phân bón lên cao, Công ty phải trả lãi ngân hàng cao thì sẽ ảnh hưởng đến sức mua của người dân và ảnh hưởng tới cả sản lượng, doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế, từ tháng 2- 2009, được Ngân hàng HTLS với mức dư nợ bình quân 50 tỷ đồng. Từ nguồn vốn HTLS 4%/năm, Công ty đã có điều kiện bán hàng trả chậm cho nông dân với lãi suất thấp (có nghĩa là chuyển tải phần tiền được HTLS cho nông dân trực tiếp hưởng lợi). Thông qua đó, hàng hoá của Công ty được tiêu thụ mạnh hơn. So với cùng kỳ năm trước, quý I- 2008, Công ty đạt sản lượng hàng hoá bán ra tăng 81%.
Còn ông Cao Văn Lương, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty Lương thực Thái Nguyên cũng cho biết: là một Công ty chuyên mua phân bón, lúa gạo phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Năm 2008, do giá cả thị trường biến động, lãi suất ngân hàng cao; Công ty lại phải thực hiện dự trữ 6000 tấn gạo để xuất khẩu theo quy định nên kết quả kinh doanh tuy không thua lỗ nhưng lãi ít (trên 1 tỷ đồng), riêng lãi ngân hàng phải trả tới 7,8 tỷ đồng. Từ khi được Ngân hàng thực hiện HTLS, Công ty đã có điều kiện mua tăng lượng hàng để phục vụ tiêu dùng trên địa bàn và xuất khẩu. Trong quý I- 2009, Công ty đã xuất khẩu được 5 nghìn tấn gạo. Dự kiến trong quý II- 2009 Công ty sẽ xuất khẩu 15 nghìn tấn gạo. Do được HTLS nên Công ty không còn lo thua lỗ do để hàng hoá lưu kho lâu mà đẩy mạnh mua vào để đảm bảo kế hoạch xuất khẩu trong quý.
Theo ông Bùi Văn Khoa, Phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh cho biết: từ khi triển khai Quyết định 131 của Chính phủ đến nay, đã có 147 doanh nghiệp được vay HTLS với số tiền 451 tỷ đồng; 4.432 hộ nông dân được vay với số tiền HTLS là 308 tỷ đồng. Với số tiền HTLS trên các hộ nông dân đã tập trung đầu tư chăm sóc lúa xuân; chăn nuôi gia súc, gia cầm (nhất là các trang trại chăn nuôi lớn) và chăm bón cho cây chè. Đối với các doanh nghiệp đã có điều kiện duy trì sản xuất kinh doanh, giảm gánh nặng thua lỗ. Các tập thể, cá nhân được vay vốn đảm bảo đúng đối tượng, được thẩm định kỹ càng. Đối với các ngân hàng, việc HTLS cũng là hướng góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng khởi sắc, sôi động hơn so với năm trước (tổng dư nợ trong quý I- 2009 của NHNo tỉnh đạt 2.071 tỷ đồng, tăng 98 tỷ đồng so với 31-12-2008, tỉ lệ tăng là 4,8%, tăng 198 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2008, tỉ lệ tăng là 10,5%.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện HTLS còn bộc lộ những tồn tại cần được Ngân hàng cấp trên tiếp tục xem xét giải quyết và các hộ vay vốn chia sẻ như: việc xác định đối tượng để cho vay gặp khó khăn (các yêu cầu về mua vật tư hàng hoá qua thị trường tự do không có giấy tờ hoá đơn); hoặc đối tượng kinh doanh hàng hoá tiêu dùng có nguồn gốc nhập khẩu; đối tượng của NHNo đông nên việc kiểm tra kiểm soát sử dụng vốn đúng đối tượng là khó khăn…






