Phác thảo vùng kinh tế trọng điểm Bắc Thủ đô Hà Nội

08:00, 20/04/2009

Ngày 1/7/2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết số 37/NQ-TW xác định "phát triển Thái Nguyên thành một trong những trung tâm kinh tế của vùng". Ngày 22/1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Kết luận về "phát triển Thái Nguyên thành vùng kinh tế trọng điểm Bắc Thủ đô Hà Nội và nằm trong tứ giác tăng trưởng kinh tế vùng".

Đây là điều kiện, cơ hội phát triển kinh tế và nâng cao vị thế của Thái Nguyên, nhưng cũng là thách thức không nhỏ với địa phương.

 

Đối với các tỉnh trong khu vực trung du - miền núi Bắc Bộ, các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng, nhất là Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên có điều kiện và khả năng hợp tác cũng như cạnh tranh mạnh mẽ. Nhờ vị trí thuận lợi và những lợi thế vốn có, Thái Nguyên có thể hợp tác với các tỉnh, thành về phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và giáo dục, đào tạo. Theo dự báo, các địa phương khu vực Bắc Bộ sẽ có tốc độ tăng trưởng rất nhanh trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Bởi vậy, Thái Nguyên sẽ có thêm cơ hội hợp tác cung ứng nguyên, nhiên liệu đầu vào cho cả khu vực.

 

Các cơ sở sản xuất trong tỉnh có thể đóng vai trò vệ tinh cho các khu công nghiệp lớn cả vùng. Ngược lại, với vai trò trung tâm vùng, Thái Nguyên là tâm điểm tiếp nhận nguồn nguyên, nhiên liệu, bán thành phẩm, công nghiệp hoá chất, cơ khí…cho các tỉnh trong khu vực. Ngoài ra, Thái nguyên cũng tiếp nhận các sản phẩm máy móc công, nông nghiệp và các mặt hàng tiêu dùng khác. Thái Nguyên còn là nơi trung chuyển nhiều sản phẩm xuất khẩu như kẽm, thiếc thỏi… cho các tỉnh.

 

Riêng với Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên có khả năng hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Về nông nghiệp, có thể hợp tác trong sản xuất, cung ứng nguyên liệu, sản phẩm, chuyển giao công nghệ sản xuất giống, quảng bá giới thiệu sản phẩm. Về công nghiệp, chúng ta hợp tác nghiên cứu sản xuất máy móc, thiết bị phục vụ chế biến, bảo quản nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng, may mặc, cơ khí, chế biến khoáng sản…

 

Với giao thông vận tải, chúng ta có đường bộ, đường sắt và đường sông có thể vận tải hành khách và giao thương hàng hoá với Thủ đô một cách thuận lợi. Về thương mại, du lịch, Thái Nguyên có thể cung cấp và tiêu thụ hàng nông sản thực phẩm, hàng xuất khẩu, đầu tư quảng bá sản phẩm du lịch, liên kết các tuor du lịch. Về xây dựng, chúng ta cũng có thể cùng trao đổi kinh nghiệm trong quy hoạch đô thị, đất đai, khu dân cư, khu công nghiệp, tư vấn, thiết kế xây dựng và cung ứng vật liệu xây dựng cho Thủ đô.

 

Trong chiến lược phát triển kinh tế cả nước, kinh tế vùng và kinh tế Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên luôn được xem là có lợi thế về nhiều mặt. Là cái nôi của ngành công nghiệp Luyện kim, Thái Nguyên có Khu gang thép mỗi năm cho ra lò hàng triệu tấn phôi thép, thép cán các loại phục vụ nhu cầu tiêu thụ trên các thị trường. Thái Nguyên cũng có thế mạnh về phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, vật liệu xây dựng, nhiệt điện. Hiện tại, Nhà máy Xi măng Thái Nguyên công suất 1,5 triệu tấn đã bắt đầu đi vào hoạt động, hứa hẹn cho ra đời những sản phẩm chất lượng tốt nhất. Công ty nhiệt điện Cao Ngạn mỗi năm cũng sản xuất và hòa mạng lưới quốc gia khoảng 700 triệu KWh điện. Thái Nguyên đang đẩy mạnh quy hoạch các khu công nghiệp tập trung, trong đó ưu tiên phát triển các khu công nghiệp giáp địa phận Thủ đô Hà Nội. Địa phương còn là một trong những cái nôi giáo dục-đào tạo trọng điểm của cả nước với 25 trường đại học, cao đẳng trên địa bàn, hàng năm đào tạo hàng chục nghìn kỹ sư, cử nhân khoa học cho khu vực. Thái Nguyên có Khu du lịch hồ Núi Cốc cùng các di tích lịch sử, danh thắng đặc sắc khác có thể gắn kết tuor du lịch với các tỉnh, thành lân cận…

 

Với những lợi thế đặc biệt như vậy, việc Thái Nguyên trở thành trung tâm vùng trung du, miền núi Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Thủ đô Hà Nội trong tương lai là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, để làm được điều đó thách thức đối với địa phương là không nhỏ. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của Thái Nguyên đòi hỏi phải nhanh hơn và cao hơn so với tăng trưởng bình quân cả vùng. Tức là trong giai đoạn 2010-2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh phải vượt mức 9%-10%/năm của cả khu vực. Các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của tỉnh giai đoạn này dự kiến cũng phải gấp khoảng 1,3 lần so với khu vực.

 

Thứ hai, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh đòi hỏi phải toàn diện và sâu sắc hơn. Tỷ trọng hai ngành công nghiệp và dịch vụ của tỉnh đến năm 2020 phải chiếm khoảng 90% tổng GDP toàn tỉnh, trong đó công nghiệp - xây dựng chiếm 47% - 48%, dịch vụ chiếm 42% - 43%. Cuối cùng, tốc độ đô thị hoá của tỉnh phải nhanh hơn nữa. Yêu cầu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp đòi hỏi thời gian tới tỉnh phải tăng nhanh dân số phi nông nghiệp, phát triển các khu đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ, các thị tứ… Dự kiến, tỷ lệ đô thị hoá vào năm 2020 của tỉnh phải đạt khoảng 44% - 45%.