Những cách làm phù hợp với nông dân nghèo

09:22, 29/05/2011

Chỉ một chút vốn hỗ trợ ban đầu nhưng đồng hành với người nông dân trong suốt thời gian diễn ra Dự án (4 năm) nhằm trang bị và bổ sung cho họ những kiến thức cần thiết về trồng trọt, chăn nuôi… Đó là những gì mà Dự án CARE (Úc) thông qua Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh triển khai tại 8 xã của huyện Định Hóa đã mang lại hiệu quả với nông dân nghèo…

 

Vừa đỡ lồng gà giống do tư thương từ Bắc Giang mang đến tận nhà để giao cho gia đình, chị Nguyễn Thị Bảy, thôn 1, xã Phú Tiến (Định Hóa), vừa cười nói và vui vẻ mời chúng tôi vào nhà. Mặc dù đã có thông báo trước là hôm nay, bà Christina Northey, Phó Giám đốc Chương trình Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam đến thăm các hộ tham gia Dự án nhưng chị vẫn tranh thủ nhập đàn gà con để nuôi cho kịp lứa bán.

 

Qua trò chuyện chúng tôi được biết, chị Bảy tham gia Dự án CARE từ cuối năm 2009 và được Dự án hỗ trợ kinh phí để mua 50 con gà giống về chăn nuôi theo phương pháp bán chăn thả. Tham gia Dự án, chị Bảy được tập huấn kỹ thuật chăm sóc gà từ khi gà mới được 1 ngày tuổi đến khi xuất chuồng. Sau 3 tháng nuôi 50 con gà do Dự án hỗ trợ, chị Bảy còn dư gần 2 triệu đồng, sau khi đã trừ chi phí. Thấy vậy, chị mạnh dạn nuôi lứa thứ 2 với 100 con, sau lứa gà thứ hai thành công, chị đã bàn với chồng đầu tư mở rộng chuồng trại để nuôi 300 con và cứ sau 1 tháng lại mua thêm 300 con nữa để nuôi gối, như vậy tháng nào gia đình chị cũng có gà xuất bán. Mấy lứa gà nuôi ban đầu, chị Bảy đều mang ra chợ bán, dần dần tư thương biết và đến tận nhà để thu mua. Chị Bảy nói với chúng tôi: Nhóm sở thích nuôi gà Thôn 1 lúc đầu chỉ có 12 người, đến nay đã có 17 người tham gia. Cả nhóm được vay 100 triệu đồng với lãi suất ưu đãi từ Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện do Dự án đứng ra tín chấp. Các thành viên trong nhóm thường xuyên được tập huấn, phổ biến tình hình dịch bệnh trong từng thời điểm. Là Nhóm trưởng nên tôi thường đứng ra mua con giống cho cả nhóm, kèm theo vắc - xin tiêm và một số loại thuốc khac phòng bệnh cho gà…

 

Được biết cách làm việc của cán bộ Dự án rất khoa học, họ đào tạo cho trên 20 người là những nông dân tham gia Dự án để trở thành tập huấn viên nông dân sau đó truyền đạt lại cho các thành viên của 30 nhóm sở thích nuôi gà tại 8 xã tham gia Dự án. Như thế, những nông dân như chị Bảy tham gia tập huấn viên lại có điều kiện ôn lại kiến thức sau mỗi lần truyền đạt cho các thành viên khác, đồng thời có thêm kinh nghiệm do được trao đổi với nhiều nhóm cùng sở thích trên địa bàn huyện…

 

Cũng được Dự án hỗ trợ về con giống, kiến thức, nhưng ông Nguyễn Thanh Hiệp, thôn 6, xã Phú Tiến lại chọn nuôi ong. Ông cho rằng, nuôi ong phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây. Ban đầu chỉ với 1 thùng ong, giờ gia đình ông Hiệp đã có 10 thùng, 5 thùng ông để quanh vườn nhà, còn 5 thùng ông đem đến những gia đình trong xóm có cây ăn quả để gửi. Hiện nay, Nhóm sở thích nuôi ong do ông Hiệp làm Trưởng nhóm đã có 21 thành viên với 150 thùng ong. Bình quân khoảng 20 ngày có thể quay mật 1 lần, cứ 5 thùng ong (mỗi thùng 4 cầu) có thể cho thu hoạch khoảng 8 lít mật, mỗi lít giá trung bình là 140 nghìn đồng. Ông Hiệp cho biết: Nuôi ong không phải đầu tư, chăm sóc nhiều, nhất là thời điểm từ tháng 3 đến tháng 7, cây cối xanh tốt, hoa trái nhiều là điều kiện rất tốt để ong làm mật. Cùng với làm ruộng, trồng rừng, giờ nuôi thêm ong nên đời sống của những thành viên trong nhóm đã bớt khó khăn. Tới đây chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển thêm vì hiện nay lượng mật chưa đủ để cung cấp cho người tiêu dùng…

 

Những người phụ nữ nghèo ở xóm Phú Hội 2, xã Sơn Phú lại chọn Nhóm sở thích trồng chè để tham gia Dự án, bởi ở Phú Hội 2 hầu như nhà nào cũng trồng chè nhưng từ trước đến nay đều chăm sóc, chế biến theo phương pháp truyền thống nên năng suất, sản lượng chưa cao. Khi Dự án vào đã hỗ trợ 10 bộ tôn sao chè cho cả nhóm. Các thành viên trong nhóm đã chia thành 5 tổ, mỗi tổ từ 3-4 chị đóng góp khoảng 5 triệu đồng/chị để xây dựng xưởng chế biến chè tập trung, đồng thời bầu tổ trưởng để tham kiểm tra chất lượng chè của các nhóm khác trước khi bán ra thị trường, từ đó rút kinh nghiệm trong lần chế biến sau. Từ cách làm này, chất lượng chè của các tổ đã được nâng lên, việc thu hái, sao sấy cũng kịp thời hơn nhờ có sự hỗ trợ của các thành viên trong tổ. Hiện nay, cả nhóm có khoảng 5ha, trong đó có khoảng 70% diện tích các chị đã chuyển đổi sang trồng chè cành các giống Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, TRI777… năng suất bình quân đạt 20kg chè búp khô/sào. Có thể thấy, từ khi tham gia Dự án đến nay, nhận thức của các chị về trồng, chế biến chè đã thay đổi. Được biết, diện tích chè của nhóm đã được cán bộ Dự án hướng dẫn thực hiện trồng, chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP (tiêu chuẩn chất lượng) và đang hoàn tất thủ tục để cấp chứng nhận.

 

Bà Chrirtina Northey, Phó Giám đốc chương trình Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam cho biết: Khi triển khai Dự án chúng tôi mong muốn mang đến cho người dân kiến thức để sau này họ có thể áp dụng trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, vì thế Dự án chỉ hỗ trợ một phần vốn rất nhỏ ban đầu để động viên người dân và để họ có cơ hội thử sức mình, khi thấy hiệu quả, chính họ sẽ tự nhân rộng và tuyên truyền tới những người xung quanh, đó là thành công lớn nhất của Dự án. Trên quan điểm của Dự án là đồng hành cùng nông dân để cung cấp cho họ những kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi hiệu quả, chứ không tài trợ hoàn toàn hay cho nông dân một khoản tiền để sau khi Dự án kết thúc thì người dân cũng “quên” ngay. Dự án CARE tại Thái Nguyên đã đi được 3/4 chặng đường và chỉ còn gần 1 năm nữa là kết thúc, hiệu quả mà những năm qua Dự án mang lại cũng đã rõ, chúng tôi hy vọng 107 tổ nhóm sở thích với 7 loại hình (nuôi gà, nuôi lợn, nuôi ong, nuôi cá, nuôi dê, trồng chè và trồng lúa) ở 8 xã (Phú Tiến, Sơn Phú, Phúc Chu, Trung Hội, Điềm Mặc, Kim Phượng, Phượng Tiến, Bảo Cường) của huyện Định Hóa sẽ là những mô hình hiệu quả để người dân nhân rộng…