Phát triển ngành sản xuất VLXD: Không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ

08:14, 30/08/2011

Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định ngành sản xuất vật liệu xây dựng (VLXD) hiện đang là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh. Với nguồn nguyên liệu khá dồi dào như hiện nay, chúng ta không chỉ nghĩ đến việc sản xuất để phục vụ nhu cầu tại chỗ mà phải tính đến việc mở rộng thị trường ra bên ngoài.

Trước tiên, về sản lượng các sản phẩm VLXD của chúng ta hiện có là rất lớn, đủ các chủng loại, mẫu mã khác nhau. Đối với thép xây dựng, toàn tỉnh hiện có 4 đến 5 Nhà máy cán thép cỡ lớn, công suất từ 300 nghìn đến 500 nghìn tấn/năm. Sắp tới, chúng ta lại chuẩn bị đón nhận sự hiện diện của Nhà máy cán thép lớn nhất khu vực Đông Nam Á mang tên Thái Trung, công suất 500 nghìn tấn/năm. Hiện nay, thép Thái Nguyên đã có mặt ở hơn 30 tỉnh thành trong cả nước. Nhiều sản phẩm thép, chủ yếu là thép hình mang nhãn hiệu TISCO đã được xuất khẩu ra nước ngoài. Cùng với thép là mặt hàng xi măng. Chúng ta hiện cũng đang sở hữu tới 6, 7 nhà máy sản xuất xi măng, trong đó lớn nhất là Nhà máy xi măng Quang Sơn với công suất 1,5 triệu tấn sản phẩm/năm. Mới đây, Nhà máy xi măng Quan Triều cũng đã đưa vào vận hành với các sản phẩm chất lượng cao. Như vậy, ước tính mỗi năm chúng ta sản xuất và cung cấp ra thị trường cũng có tới 2 đến 3 triệu tấn xi măng các loại. Về gạch và đá xây dựng, chúng ta cũng bắt đầu tăng mạnh về số lượng đơn vị sản xuất và sản lượng sản phẩm làm ra. Một loạt các mỏ đá, cát, sỏi đã được tỉnh cấp phép khai thác. Đi cùng với nó là các dây chuyền khai thác, chế biến phục vụ nguyên liệu thi công công trình xây dựng và đường giao thông. Hiện tại, các nhà máy sản xuất gạch tuynel, gạch ceramic, gạch ốp lát với công suất lớn đang mọc lên khá nhiều tại các địa phương, dần thay thế việc sản xuất thủ công. Điển hình là Nhà máy sản xuất gạch Ceramic Phổ Yên công suất 12 triệu m2/năm; Nhà máy gạch ốp lát Việt ý-Sông Công, công suất 2 triệu m2/năm... Ngoài Công ty Cổ phần Vật liệu chịu lửa, đơn vị dẫn đầu về sản xuất gạch xây dựng của tỉnh, trung bình mỗi huyện, thành, thị có khoảng 2 đến 3 Nhà máy gạch tuynel, không những đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng trong tỉnh mà còn cung cấp ra các tỉnh ngoài như Hà Nội, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Kạn, Lạng Sơn…

 

Theo con số thống kê chưa đầy đủ thì toàn tỉnh hiện có gần 1.800 cơ sở sản xuất VLXD và khai thác, chế biến khoáng sản làm VLXD, chiếm khoảng 16% tổng số các cơ sở sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Nếu năm 2000, giá trị sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất VLXD mới đạt khoảng 202 tỷ đồng thì năm 2010 đạt ở mức khoảng 2.000 tỷ đồng. Xét về cơ cấu của cả ngành công nghiệp nói chung thì công nghiệp sản xuất VLXD cũng chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng 16% đến 20%. Trong tổng số 10 nhóm ngành công nghiệp thì công nghiệp sản xuất VLXD chỉ đứng sau công nghiệp sản xuất kim loại và công nghiệp cơ khí, gia công kim loại.

 

Về chất lượng, chúng ta cũng hoàn toàn có thể tự hào bởi đã nhiều năm nay các sản phẩm VLXD trên địa bàn đều đạt các danh hiệu lớn như: Hàng Việt Nam chất lược cao do người tiêu dùng bình chọn hoặc đạt tiêu chuẩn ISO theo quy định. Thép TISCO của chúng ta được xem là một trong 5 loại thép có sức tiêu thụ mạnh nhất và chiếm thị phần đáng kể, nhất là với các tỉnh miền Bắc; xi măng La Hiên, Cao Ngạn, Quang Sơn thường xuyên được các nhà thầu xây dựng trong và ngoài tỉnh lựa chọn, ký hợp đồng khối lượng lớn; đá, cát, sỏi, gạch, ngói của chúng ta cũng bắt đầu chiếm lĩnh thị trường ở các tỉnh lân cận. Theo nhận định của các nhà chuyên môn, những năm qua, ngành sản xuất VLXD của chúng ta đã cơ bản giành phần thắng trên “sân nhà”, nghĩa là chiếm phần lớn thị phần trong tỉnh và bắt đầu vươn ra khai thác thị trường bên ngoài. Trong hàng trăm dự án xây dựng công cộng và cả chục nghìn công trình dân sinh trên địa bàn tỉnh mấy năm gần đây, nguồn nguyên, vật liệu hầu hết được cung cấp bởi các doanh nghiệp sản xuất VLXD của tỉnh. Các công trình, dự án trọng điểm đang triển khai trên địa bàn hiện nay như: Dự án đường Bắc Sơn, Dự án xây dựng toà tháp đôi tại trung tâm T.P Thái Nguyên, Dự án Nhiệt điện An Khánh, Dự án đường cao tốc Hà Nội-Thái Nguyên, Dựa án Khu đô thị hồ Xương Rồng… hầu hết đều sử dụng VLXD của tỉnh. Ông Hoàng Văn Sơn, Giám đốc Ban Quản lý Dự án Khu đô thị hồ Xương Rồng cho biết: Trong quá trình triển khai Dự án, chúng tôi gặp rất nhiều thuận lợi, nhất là về nguyên vật liệu. Một Dự án có quy mô lớn như hồ Xương Rồng thì việc chủ động VLXD tại chỗ là một thắng lợi đối với doanh nghiệp. Toàn bộ đất, đá, cát sỏi, sắt thép để san nền, xây kè, cống, làm đường giao thông, dựng cột điện, lát vỉa hè… đều sẵn có và không phải vận chuyển xa.  Còn ông Nguyễn Quang Huy, đại diện cho Công ty cổ phần Đầu tư-Xây dựng ngân hàng hiện đang triển khai một số dự án xây dựng nhà cao tầng trên địa bàn tỉnh tâm sự: Chúng tôi đã xây dựng nhiều công trình ở các địa phương nhưng riêng với Thái Nguyên có lẽ là thuận lợi nhất về nguồn VLXD, chỉ cần gọi điện là có xe vận chuyển đến tận chân công trình. Hai năm trước, chúng tôi làm mấy công trình bên Bắc Ninh, Phú Thọ, nhà thầu phải sang tận Thái Nguyên để vận chuyển VLXD, tốn kém lắm.

 

Theo dự tính, mỗi năm, nhu cầu về các loại VLXD của Thái Nguyên và của các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc là khoảng 40 triệu tấn xi măng, 1,3 tỷ viên gạch, 3 triệu m3 đá xây dựng, 12 triệu m3 gạch ốp lát... Như vậy, có thể nói đây là thị trường “màu mỡ” và tiềm năng đối với ngành công nghiệp sản xuất VLXD của chúng ta. Do đó, không có lý gì chúng ta không tập trung đầu tư, đẩy mạnh sản xuất VLXD để vừa đạt mục đích khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có, vừa nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp của địa phương.