Xây dựng các làng nghề bền vững

09:26, 31/10/2011

Do có sự đổi mới về cơ chế quản lý cũng như có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế phù hợp nên trong những năm qua, số hộ sản xuất, doanh nghiệp ở các làng nghề trong tỉnh đã tăng nhanh…

Đến nay, Thái Nguyên đã có 118 doanh nghiệp, 40 hợp tác xã hoạt động trong các làng nghề. Theo đó, có khoảng 15 nghìn hộ dân hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề theo hộ, bao gồm cả hộ chuyên và không chuyên (tăng khoảng 20-30% so với 3 năm trước). Hiện, nhiều làng nghề truyền thống của tỉnh được khôi phục và phát triển như: chế biến lâm sản, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ ở Xuân Phương (Phú Bình), Tiên Phong (Phổ Yên); nghề mây, tre đan ở xã Tân Khánh (Phú Bình); sản xuất, chế biến chè ở các làng nghề chè truyền thống của Đại Từ, Đồng Hỷ, T.P Thái Nguyên… Ngoài ra, tỉnh ta còn xuất hiện thêm một vài nghề mới như thêu ren ở Tân Thái (Đại Từ); trồng hoa ở Hóa Thượng (Đồng Hỷ)…

 

Tính đến thời điểm này, tỉnh có 173 làng nghề có đủ điều kiện để công nhận làng nghề theo Thông tư số 116 ngày 18-12-2006 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Nếu phân theo ngành nghề sản xuất thì có 110 làng nghề chế biến chè; 25 làng nghề chế biến nông, lâm sản (chè, nhãn, vải, bánh chưng, sản xuất bún, bánh, chế biến đậu phụ, đường phên, dâu tằm tơ, miến dong, nấu rượu, trồng hoa, trồng sau an toàn); 29 làng nghề mây, tre đan và thủ công mỹ nghệ; 6 làng nghề vật liệu xây dựng (gạch nung, ngói xi măng, gạch hoa lát nền); 3 làng nghề thêu. Trong đó số các làng nghề nêu trên, có 61 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận, tăng gần 40 làng nghề so với năm 2009. Các làng nghề đã tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ khắp thị trường trong nước và tham gia vào thị trường xuất khẩu.

 

Theo con số do Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh cung cấp, hằng năm, các làng nghề chè sản xuất ra khoảng 150 đến 170 nghìn tấn chè búp tươi cung cấp cho các cơ sở chế biến trong tỉnh phát triển ổn định. Các làng nghề chế biến nông sản (mỳ, miến, bánh trưng, đậu phụ...) sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ trong tỉnh. Ông Phùng Văn Hợp, Chủ nhiệm hợp tác xã làng nghề đậu phụ An Long, xã Bình Long (Võ Nhai) cho biết: Sản phẩm đậu phụ của chúng tôi được rất nhiều người dân trong huyện biết đến. Đậu sản xuất ra đến đâu, được tiêu thụ hết đến đó. Từ nghề chế biến đậu phụ, có khoảng 30 người dân được giải quyết việc làm ổn định với mức thu nhập từ 15 đến 18 triệu đồng/người/năm. Với các làng nghề chế biến lâm sản, chủ yếu sản xuất ra ván tấm, nan gỗ được tận thu gỗ vườn và tỉa thưa rừng... Đối với các làng nghề thủ công mỹ nghệ, sản phẩm mây, tre đan chủ yếu hợp đồng gia công cho các doanh nghiệp ngoài tỉnh; một số sản phẩm như rổ, rá, sọt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất trong vùng; hàng đồ gỗ mỹ nghệ hiện có 250 cơ sở, bình quân thu hút 4-6 lao động/cơ sở, với mức thu nhập bình quân từ 2 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng.

 

Ông Nguyễn Văn Hợp, Chi cục Trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh cho rằng: Phát triển làng nghề không những tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động ở nông thôn mà còn hạn chế sự di dân tự do ra thành thị, huy động được nguồn lực trong dân, sử dụng nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương, giữ gìn bản sắc văn hóa lâu đời của dân tộc, thu hẹp khoảng cách mức sống giữa nông thôn và thành thị. Một điều đáng mừng là thời gian gần đây, các làng nghề đã chú ý hơn đến việc áp dụng máy móc, thiết bị vào sản xuất. Nhiều làng nghề như làng nghề chế biến chè Thác Dài, xã Tức Tranh (Phú Lương); Cà Phê 1, 2 xã Minh Lập (Đồng Hỷ)… người dân đã mạnh dạn đầu tư tiền mua tôn sao chè bằng inoc, máy hút chân không bảo quản chè…

 

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy tỉnh vẫn còn trên 100 làng nghề chưa được công nhận. Nhiều làng nghề quy mô còn quá nhỏ, giá trị sản xuất và số lao động còn ở mức khiêm tốn, các sản phẩm của làng nghề chưa có thương hiệu, chất lượng không cao, mức độ tiêu thụ hạn chế. Qua khảo sát điều tra ở một số làng nghề cho thấy, những năm qua, các làng nghề đã chú ý hơn đến việc áp dụng máy móc, thiết bị vào sản xuất nhưng vẫn còn ở mức độ thấp, giữa các ngành và các vùng chưa đồng đều, vấn đề ứng dụng và đổi mới công nghệ còn gặp nhiều khó khăn về vốn, nhân lực... Việc duy trì phát triển sản xuất của các làng nghề cũng đang gặp nhiều trở ngại khi mà nguồn vốn hạn hẹp, trình độ tay nghề của lao động cũng như năng lực quản lý của chủ cơ sở còn hạn chế, nguyên liệu đầu vào, giá cả thị trường không ổn định… Đặc biệt, môi trường sản xuất kinh doanh đang bị ô nhiễm, dịch vụ phục vụ sản xuất không đồng bộ… Hiện nay, hệ thống cấp nước, kênh thoát nước và xử lý chất thải, nước thải tại các làng nghề chưa bảo đảm quy trình công nghệ, phù hợp với tính chất môi trường. Đơn cử như khi đi thực tế tại một số vùng chè trong tỉnh như Tân Linh, Phục Linh (Đại Từ); Văn Hán, Khe Mo (Đồng Hỷ)... chúng tôi thấy người dân vẫn vứt vỏ chai, lọ, túi đựng các loại thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi.

 

Xác định phát triển làng nghề là một trong những mục tiêu quan trọng để đẩy nhanh quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy việc nghiên cứu để đưa ra giải pháp phát triển bền vững cho các làng nghề của tỉnh đang là đòi hỏi bức thiết hiện nay.

 

Để giúp các làng nghề tồn tại và phát triển, nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm, giữ gìn nét văn hóa truyền thống và khẳng định thương hiệu sản phẩm trên thị trường, tháng 9 vừa qua, UBND tỉnh quyết định điều chỉnh tăng mức hỗ trợ làng nghề, khen thưởng nghệ nhân giỏi. Theo đó, hỗ trợ 35 triệu đồng/làng nghề; 40 triệu đồng/làng nghề truyền thống; khen thưởng 3 triệu đồng/nghệ nhân, 1 triệu đồng/thợ giỏi... Bên cạnh đó, tỉnh đang tiếp tục quy hoạch làng nghề bằng cách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ gia đình làm nghề vay vốn phát triển sản xuất, đồng thời mở lớp tập huấn đào tạo nghề để giúp đỡ một số làng nghề đã bị mai một có điều kiện phát triển trở lại; xây dựng mô hình làng nghề gắn kết với các hộ, cơ sở sản xuất với doanh nghiệp sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm...