Thái Nguyên hiện có gần 18.200ha chè, trong đó, diện tích chè kinh doanh chiếm 16.648ha. Năm 2011, sản lượng chè toàn tỉnh đạt trên 181 nghìn tấn, đạt 106,5% kế hoạch năm…
Hiện nay, các vùng chè trên địa bàn tỉnh đang bước vào chính vụ. Có mặt ở một số chợ ở Phúc Xuân (T.P Thái Nguyên), La Bằng (Đại Từ), Phúc Thuận (Phổ Yên), Minh Lập (Đồng Hỷ)… chúng tôi nhận thấy mặt hàng này được mua, bán, vận chuyển khá nhộn nhịp. Anh Hoàng Văn Thông, một hộ chuyên kinh doanh chè ở tổ 13, phường Hoàng Văn Thụ (T.P Thái Nguyên) cho biết: Có loại chè ngon của vùng chè Trại Cài, Minh Lập hoặc của thị trấn Sông Cầu (Đồng Hỷ), tôi vẫn bán được với giá 250-300 nghìn đồng/kg, trong khi thời điểm này năm ngoái chỉ bán được giá 200-220 nghìn đồng/kg.
Khi thị trường chè có nhiều khởi sắc, giá chè tăng, người làm chè cũng phấn khởi hơn. Ông Nguyễn Văn Bằng, một hộ làm chè ở xóm La Bằng, xã La Bằng (Đại Từ) cho biết: Dù đang là chính vụ nhưng chè búp khô của chúng tôi làm ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Hiện, gia đình đang đầu tư thâm canh 7 sào chè cành (giống LDP1, TRI 777) để nâng cao năng suất cũng như chất lượng, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Qua tìm hiểu tại các vùng chè trọng điểm của tỉnh như Tân Cương, Phúc Xuân (T.P Thái Nguyên), La Bằng, Khuôn Gà - Hùng Sơn (Đại Từ); Trại Cài, Sông Cầu (Đồng Hỷ), Khe Cốc - Tức Tranh (Phú Lương), chúng tôi thấy giá chè được bán với giá 150.000-250.000 đồng/kg. Ở các vùng chè khác như Phổ Yên, Định Hóa… bà con cũng bán được giá, từ 100.000-150.000 đồng/kg, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái khoảng 10-15%.
Ông Hoàng Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho rằng, từ sau Liên hoan Trà, người tiêu dùng đã biết đến chè Thái nhiều hơn. Hơn nữa, vài năm trở lại đây, việc các tổ chức, cá nhân tích cực quảng bá thương hiệu "chè Thái” thông qua các hội chợ trong, ngoài tỉnh cũng đã giúp sản phẩm này đến gần với người tiêu dùng hơn. Nhất là khi ý thức của người làm chè đã được nâng lên, ở một số vùng chè, người dân đã sản xuất chè theo quy trình VietGAP (sản xuất nông nghiệp tốt) hoặc UTZ Certified (tiêu chuẩn về sản xuất các sản phẩm nông sản tốt trên quy mô toàn cầu) và sử dụng các giống chè mới như LDP1, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên… trồng thay thế giống chè trung du đã góp phần nâng cao chất lượng chè Thái, tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Một trong những nguyên nhân khiến chè Thái được tiêu thụ ổn định trên thị trường nữa là khoảng 2, 3 năm trở lại đây, các hộ dân đã có sự liên kết, hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã trong chế biến, tiêu thụ chè, ký hợp đồng tiêu thụ ổn định với các doanh nghiệp lớn... Đến thời điểm này, toàn tỉnh đã có trên 290 tổ hợp tác với 1.682 thành viên, trong đó có 17 tổ hợp tác hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất chè an toàn, dịch vụ môi trường… Theo đó, số HTX sản xuất, chế biến, kinh doanh chè cũng đã có hàng trăm.
Chè chính vụ được giá hơn mọi năm là tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, một thực tế là năm nay, sản lượng loại chè ngon như chè tôm, chè đặc sản ở một số vùng chè không cao bằng mọi năm. Theo bà Nguyễn Thị Mận, một người dân ở xóm Tiến Thành, xã Bình Thuận (Đại Từ): Chè chất lượng cao thu được ít hơn mọi năm là do thời tiết, khí hậu bất thường, lúc thì rét, khi thì nắng nóng, hạn hán.
Do vậy, dù được giá nhưng người làm chè cũng cần phải quan tâm đầu tư hơn nữa cho việc nâng cao chất lượng chè, nhất là việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng, chăm sóc, chế biến chè để có thể hạn chế được những bất lợi do thời tiết gây ra.
Hiện nay, toàn tỉnh có gần 18.200ha chè, trong đó, diện tích chè kinh doanh chiếm 16.648ha. Năm 2011, sản lượng chè toàn tỉnh đạt trên 181 nghìn tấn, đạt 106,5% kế hoạch năm; giá trị một héc-ta chè đã đạt khoảng 60-70 triệu đồng, tăng 5-15 triệu đồng so với năm 2010. Cây chè vẫn tiếp tục phát huy thế mạnh, trở thành nguồn thu nhập chính của hàng chục nghìn hộ dân trên địa bàn.
Bà Nguyễn Thị Nhiễu, chủ cửa hàng kinh doanh chè tại chợ Thái (T.P Thái Nguyên): Kinh doanh chè búp khô gần chục năm nay, nhưng đây là năm đầu tiên tôi thấy chè chính vụ bán được giá. Thực tế này cho thấy chè Thái đang được tiêu thụ mạnh ở thị trường nội địa. |