Giá trị nông lâm thủy sản tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước

15:08, 26/11/2012

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) vừa cho biết, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản chính 11 tháng năm nay có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước, ngoại trừ mặt hàng gạo và cao su.  

Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11 ước đạt 2,4 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản 11 tháng ước đạt 25 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính 11 tháng ước đạt 13,6 tỷ USD, tăng 9,3%; thuỷ sản ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 1,2%; lâm sản chính ước đạt 4,4 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước.

 

Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, trong tháng 11 ước xuất khẩu mặt hàng này đạt 548 ngàn tấn với trị giá 281 triệu USD. Như vậy, lượng gạo xuất khẩu 11 tháng dự kiến đạt 7,4 triệu tấn với giá trị 3,4 tỷ USD, tăng 9,7% về lượng nhưng giảm 1,4% về giá trị so cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, giá gạo tiếp tục có xu hướng giảm so với đầu năm. Giá xuất khẩu bình quân chung 10 tháng đạt 454 USD/tấn, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường xuất khẩu gạo năm nay có nhiều thay đổi, trong đó thị trường Trung Quốc tăng mạnh, gấp 6,2 lần về lượng và 5,3 lần về giá trị so với cùng kỳ năm trước và trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng trong khi nhiều thị trường lớn khác lại sụt giảm cả về lượng và giá trị như: Indonesia, Singapore, Senegal, v.v...

 

Mặt hàng cao su cũng giảm mạnh về giá trị như mặt hàng gạo. Xuất khẩu cao su tháng 11 ước đạt 116 ngàn tấn, giá trị đạt 323 triệu USD, đưa tổng khối lượng cao su xuất khẩu 11 tháng lên 931 ngàn tấn, thu về 2,6 tỉ USD, tuy có tăng 32% về lượng nhưng giảm 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất khẩu trung bình 10 tháng đạt 2.828 USD/tấn, giảm 33,6% so với cùng kỳ năm 2011. Khối lượng cao su xuất khẩu tăng tại một số thị trường lớn như: Trung Quốc (tăng 9,8%), Malaixia (gấp 3,5 lần), Ấn Độ (gấp 3,77 lần), Đài Loan (Trung Quốc) (tăng 25%). Tuy nhiên, giá giảm liên tục từ đầu năm đến nay nên giá trị xuất khẩu cao su giảm so với cùng kỳ năm 2011.

 

Trái với mặt hàng gạo và cao su, mặt hàng cà phê lại có tăng trưởng mạnh cả về lượng và giá trị. Tháng 11 xuất khẩu cà phê ước đạt 122 ngàn tấn, với giá trị đạt 261 triệu USD, nâng tổng khối lượng cà phê xuất khẩu 11 tháng lên mức 1,56 triệu tấn với trị giá 3,33 tỷ USD, tăng 42% về lượng và 37,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 10 tháng đạt 2.133 USD/tấn, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam là Đức (chiếm 12,03% thị phần) và Hoa Kỳ (12%) tăng trưởng khá cả về lượng và giá trị. Đáng chú ý nhất là thị trường Indonesia tăng trưởng đột biến với mức tăng gấp 8,4 lần về lượng và 8 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2011. Tuy nhiên, trong 10 tháng năm 2012 thị trường Bỉ - thị trường lớn nhất của Việt Nam trong năm 2011 có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị (chỉ bằng gần 60% so với cùng kỳ năm trước). Xuất khẩu cà phê trong những tháng tới có thể tăng do nguồn cung sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào tháng cuối năm.

 

Đối với mặt hàng chè, tình hình tiêu thụ khá khả quan, Pakixtan tiếp tục giữ vị trí thứ nhất với 19,9% thị phần. Sự tăng trưởng được thấy ở hầu hết các thị trường lớn ngoại trừ Nga và Đức. Xuất khẩu chè tháng 11 ước đạt 14 ngàn tấn, với giá trị đạt 19 triệu USD. Lượng chè xuất khẩu 11 tháng ước đạt 136 ngàn tấn, với kim ngạch 205 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,4% về lượng và 11,5% về giá trị. Giá bình quân 10 tháng đạt 1.524 USD/tấn, tăng 0,2% so với mức giá xuất khẩu của năm 2011 là 1.521 USD/tấn.

 

Hạt điều cũng là mặt hàng duy trì được đà tăng trưởng khá ổn định. Ước tháng 11, xuất khẩu đạt 20 ngàn tấn với kim ngạch 132 triệu USD, đưa tổng khối lượng điều xuất khẩu 11 tháng ước đạt 203 ngàn tấn, kim ngạch 1,365 tỷ USD, tăng 26,4% về lượng và 2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011. Việt Nam tiếp tục giữ vững vị trí là nước xuất khẩu hạt điều nhân lớn nhất thế giới. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 10 tháng đạt 6.721 USD/tấn, giảm 19% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả các thị trường tiêu thụ lớn đều có sự tăng trưởng khá mạnh về lượng và giá trị ngoại trừ Hà Lan (giảm gần 9% về lượng và 18% về giá trị). Các thị trường tiêu thụ hạt điều lớn của Việt Nam vẫn là Hoa Kỳ (chiếm tỷ trọng giá trị 27,92%), Trung Quốc (17,9%), Hà Lan (11,8%). Theo Bộ NN&PTNT, xuất khẩu tháng tới có xu hướng giảm nhẹ do nguồn cung hạn chế.

 

Mặt hàng tiêu tuy có sự giảm về lượng nhưng giá trị tăng đáng kể. Ước tháng 11 xuất khẩu tiêu đạt 7 ngàn tấn, kim ngạch đạt 53 triệu USD. Tổng khối lượng tiêu xuất khẩu 11 tháng dự kiến đạt 110 ngàn tấn với kim ngạch 750 triệu USD, giảm 8,9% về lượng nhưng tăng 6,1% về giá trị so cùng kỳ năm trước. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 10 tháng đạt 6.798 USD/tấn, tăng 17,1% so với năm trước. Các thị trường nhập khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam vẫn là Hoa Kỳ (chiếm 14,37% thị phần), Đức (10,6%) và Các tiểu vương quốc Ả rập Thống Nhất (9%). Do nguồn cung trong nước hạn chế nên xuất khẩu tiêu được Bộ NN&PTNT dự báo sẽ giảm mạnh trong tháng tới.

 

Đối với gỗ và sản phẩm gỗ, ước kim ngạch xuất khẩu trong tháng 11 đạt 430 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt gần 4,2 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh: Hoa Kỳ tăng 28,4%, Trung Quốc tăng 7,7%, Nhật Bản tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2011. Trong tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.

 

Mặt hàng thủy sản cũng được đánh giá khá ổn định, giá trị kim ngạch xuất tháng 11 ước đạt 514 triệu USD, nâng tổng giá trị xuất khẩu thủy sản 11 tháng lên 5,59 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2011. Hoa Kỳ vẫn duy trì vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam. Bộ NN&PTNT cũng dự báo xuất khẩu mặt hàng này thường có xu hướng tăng trong tháng cuối năm do nhu cầu từ các nước nhập khẩu tăng.