Trăn trở đầu ra sản phẩm làng nghề

10:59, 08/06/2014

Mặc dù đã được quan tâm hỗ trợ và có những khởi sắc nhất định nhưng nhìn chung, việc tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề trên địa bàn tỉnh hiện vẫn gặp khó khăn và thiếu ổn định. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của làng nghề.

Đầu ra thiếu ổn định, giá bán sản phẩm và lợi nhuận của người làm nghề không cao là nguyên nhân khiến một số người dân bỏ nghề hoặc hoạt động cầm chừng.

 

Làng nghề… “thoái trào” 

 

Có thể nói như vậy về Làng nghề truyền thống mây tre đan Thù Lâm, xã Tiên Phong (Phổ Yên). Làng cổ Thù Lâm (nay được chia thành 4 xóm gồm: Trung Lâm, Đông Lâm, Hương Lâm và Ngọc Lâm) đã có nghề mây tre đan từ hàng trăm năm trước. Năm 2009, khi Thù Lâm đón Bằng công nhận làng nghề truyền thống thì vẫn còn khoảng 90% số hộ làm nghề. Tuy nhiên, số hộ làm nghề mây tre đan ở Thù Lâm luôn biến động theo chiều hướng giảm, và hiện nay chỉ còn khoảng 50% hộ dân duy trì nghề này. Ông Hoàng Văn Đề, Trưởng xóm Trung Lâm cho biết: Số hộ còn làm nghề của xóm chỉ khoảng hơn 30%, trong khi năm 2008 có tới 95% hộ làm nghề. Nói là hơn 30% hộ còn làm nhưng thực ra số hộ làm thường xuyên không đáng là bao, bởi phần lớn dù vẫn có nguyên liệu trong nhà nhưng khi nông nhàn thì họ mới mang ra đan cho đỡ… nhớ nghề.

 

Nguyên nhân của tình trạng này, theo ông Hoàng Văn Đề và một số người dân cho biết là do lợi nhuận từ nghề rất thấp, giá trị ngày công của mỗi lao động chỉ được khoảng 20 đến 30 nghìn đồng. Các sản phẩm mây tre đan của Thù Lâm (giần, sàng, thúng, mẹt…) ngày càng khó cạnh tranh với sản phẩm gia dụng cùng loại bằng chất liệu khác, được sản xuất hàng loạt và có giá bán thấp hơn. Trong khi hình thức tiêu thụ sản phẩm của người làm nghề ở Thù Lâm vẫn không khác nhiều so với trước, tự bán nhỏ lẻ hoặc bán cho tư thương, nhiều khi chấp nhận bị ép giá. Người dân cũng có nhiều sự lựa chọn nghề nghiệp hơn trước nên không mấy ai quan tâm đến việc duy trì, phát triển nghề truyền thống bằng cách cải tiến mẫu mã, sản xuất những sản phẩm độc đáo có giá trị cao hoặc tìm thị trường ổn định cho sản phẩm của làng nghề…

 

Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra tại Làng nghề sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Cẩm Trà, xã Trung Thành (Phổ Yên). Ở giai đoạn phát triển “rực rỡ” nhất, làng nghề này có khoảng 200 xưởng sản xuất đồ mộc mỹ nghệ (sản phẩm chính là các loại con tiện cầu thang). Nhưng năm 2011 giảm xuống còn 150 xưởng, năm 2013 còn 70 xưởng và hiện nay chỉ còn trên 30 xưởng hoạt động thường xuyên. Theo ông Trịnh Anh Sáu, Trưởng xóm Cẩm Trà thì khoảng 5 năm trở về trước, nghề mộc mỹ nghệ thực sự là nghề thế mạnh, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động và làm giàu cho người dân trong xóm. Nhưng khoảng 3 năm trở lại đây do đầu ra gặp khó khăn, sản phẩm ế ẩm nên số hộ làm nghề cứ “rút” dần. Số hộ còn duy trì thì luôn bị động về nguồn gỗ nguyên liệu, không những khó tiêu thụ sản phẩm mà còn hay bị khách hàng chậm thanh toán.

 

Người làm nghề cần sự nỗ lực và được “tiếp sức”

 

Tình trạng “thoái trào” như ở 2 làng nghề vừa nêu tuy không phổ biến trên địa bàn tỉnh nhưng cũng đủ minh họa cho một thực tế chung hiện nay. Đó là tại hầu hết các làng nghề, việc tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn, manh mún, mạnh ai nấy bán, thiếu sự liên kết giữa các hộ làm nghề để xây dựng thương hiệu chung và tìm đầu ra cho sản phẩm; chưa có nhiều doanh nghiệp liên kết tiêu thụ sản phẩm một cách ổn định cho các làng nghề. Vì vậy, người làm nghề bị phụ thuộc nhiều vào tư thương và thường bị động, lúng túng khi thị trường gặp khó. Kể cả tại phần lớn các làng nghề chè (chiếm trên 80% số làng nghề của tỉnh – 85/105 làng nghề), việc tiêu thụ sản phẩm vốn thường khá thuận lợi nhưng cũng không ổn định, giá bán bấp bênh và vẫn bị tư thương ép giá.

 

Có thể nói, vấn đề đầu ra cho sản phẩm trong đó có sản phẩm làng nghề bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố như: Nhu cầu thị trường; chất lượng và giá thành sản phẩm; công tác quảng bá, giới thiệu… Thời gian gần đây, tỉnh ta đã triển khai khá nhiều giải pháp hỗ trợ phát triển làng nghề, nhằm nâng cao năng lực sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của những người làm nghề, cụ thể là: Tư vấn hoàn thiện hồ sơ, hỗ trợ kinh phí xây dựng cổng làng và tổ chức đón Bằng công nhận làng nghề (35 triệu đồng/làng nghề và 40 triệu đồng/làng nghề truyền thống; hỗ trợ các làng nghề xây dựng trang thông tin điện tử, tham gia hội chợ thương mại; hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất làng nghề; tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật… Vì vậy, tình hình tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề đã ít nhiều có sự khởi sắc, nhưng chưa thực sự rõ nét.

 

Theo ý kiến của Bà Đinh Thị Thu, Thư ký Hiệp hội Làng nghề tỉnh thì: cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân trong các làng nghề cần nỗ lực cải thiện năng lực sản xuất, đầu tư thiết bị, nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm, đồng thời chủ động nắm bắt thông tin thị trường, năng động hơn trong khâu tiêu thụ. Ý thức tập thể của người dân làng nghề cũng rất quan trọng, thể hiện ở việc chia sẻ thông tin thị trường, chấp hành tốt điều lệ để xây dựng một thương hiệu chung đủ mạnh.

 

Một thực tế là tại những làng nghề có tổ chức kinh tế tập thể (hợp tác xã, tổ hợp tác) hoạt động cùng lĩnh vực một cách hiệu quả, thì thương hiệu sản phẩm dễ “nổi tiếng” hơn, tiêu thụ thuận lợi hơn và làng nghề cũng có nhiều cơ hội tiếp nhận những chương trình hỗ trợ. Đó là hướng phát triển phù hợp, cần quan tâm nhân rộng. Cùng với đó, các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ làng nghề, nhất là về tín dụng và tiêu thụ sản phẩm cần phải được triển khai một cách thiết thực hơn nữa, góp phần thúc đẩy phát triển làng nghề một cách bền vững.