
Những năm gần đây, nhắc đến sản phẩm chè an toàn của Thái Nguyên, người ta không thể không nhắc đến Hợp tác xã Chè Tân Hương (xã Phúc Xuân, T.P Thái Nguyên). Để xây dựng được thương hiệu chè có được tiếng vang và chỗ đứng vững chắc trên thị trường như hiện nay là nhờ HTX kiên trì áp dụng quy trình sản xuất và chế biến chè theo tiêu chuẩn Quốc tế UTZ Certified (tiêu chuẩn về sản xuất các sản phẩm nông sản tốt trên quy mô toàn cầu).
Dẫn chúng tôi đi thăm những nương chè xanh mướt đang trong kỳ thu hái, bà Đỗ Thị Hiệp, Giám đốc HTX Chè Tân Hương chia sẻ: HTX Chè Tân Hương được thành lập vào tháng 5-2001 với 32 thành viên là các hộ trồng và chế biến chè ở xã Phúc Xuân (T.P Thái Nguyên). Trước đây, do hầu hết các thành viên HTX đều sản xuất, chế biến chè theo các phương pháp thủ công truyền thống nên năng xuất, sản lượng và chất lượng chè không cao. Sản phẩm chè của HTX chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh với quy mô nhỏ lẻ và gặp rất nhiều khó khăn.
Trước thực trạng đó, HTX xác định, muốn gây dựng được thương hiệu đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường thì nhất thiết phải sản xuất, chế biến chè theo tiêu chuẩn an toàn, phải tạo ra sản phẩm sạch, có chất lượng cao và được tổ chức có uy tín cấp chứng nhận. Với suy nghĩ đó, Ban chủ nhiệm HTX đã tìm tòi, nghiên cứu và quyết định lựa chọn quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Quốc tế UTZ Certified để áp dụng cho sản phẩm chè của HTX. Được sự giúp đỡ của Tổ chức phi chính phủ SOLIDARIDAD (Hà Lan), đầu năm 2011, HTX đã vận động các thành viên thực hiện mô hình sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn UTZ Certified trên diện tích ban đầu 10,25 ha. Sau 1 năm triển khai mô hình bằng việc áp dụng hàng chục quy định khắt khe theo tiêu chuẩn quốc tế, tháng 11 năm 2011, HTX Chè Tân Hương đã chính thức được cấp chứng nhận UTZ Certified cho sản phẩm của mình. Từ đó đến nay, hằng năm, HTX đều được tổ chức SOLIDARIDAD kiểm tra và cấp lại chứng chỉ này.
Hiện nay, HTX chè Tân Hương đầu tiên và duy nhất trên địa bàn tỉnh áp dụng quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn quốc tế UTZ Certified. Đây là tiêu chuẩn quốc tế nên đòi hỏi các xã viên phải áp dụng theo quy trình sản xuất rất khắt khe. Nếu như trước đây, bà con vốn quen với tập quán canh tác cũ, bón phân, phun thuốc trừ sâu vô tội vạ thì nay, các thành viên HTX phải tuân thủ nghiêm ngặt tất cả những khâu từ: trồng, chăm sóc, thu hái, bảo quản, đóng bao bì.... theo dây chuyền khép kín. Tất cả các sản phẩm của HTX khi sản xuất ra và cung cấp đến người tiêu dùng đều phải đảm bảo an toàn và đạt chất lượng cao nhất.
Để làm được điều đó, mỗi hộ thành viên đều phải có “sổ nhật ký nông hộ” ghi chép đầy đủ các thông số về ngày bón phân, phun thuốc trừ sâu và ngày thu hái, cũng như ghi chép cả chủng loại phân bón và thuốc bảo vệ đã sử dụng cho từng nương chè. Để giám sát các hộ tuân thủ nghiêm ngặt quy trình này, HTX đã thành lập ra 9 nhóm sản xuất (mỗi nhóm từ 5-7 hộ gia đình). Các thành viên trong nhóm sản xuất có trách nhiệm giúp đỡ, trao đổi kinh nghiệm, đồng thời, theo dõi, giám sát lẫn nhau trong quá trình thực hiện. Việc giám sát chung sẽ do Ban Quản trị HTX phụ trách. Nếu phát hiện xã viên nào không tuân thủ các quy trình nói trên thì HTX sẽ tiến hành nhắc nhở hoặc đình chỉ thu mua sản phẩm của xã viên đó. Nhờ cơ chế giám sát chặt chẽ như vậy, gần 5 năm qua, hầu hết các xã viên của HTX đều tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình trồng và chế biến theo đúng tiêu chuẩn đã đề ra.
Là một trong những hộ trồng chè nhiều nhất của HTX, gia đình chị Đỗ Thị Mười, xóm Cây Thị, xã Phúc Xuân chia sẻ: Sản xuất theo tiêu chuẩn UTZ tuy vất vả hơn nhưng lợi ích đem lại cho người trồng chè là rất lớn. Nếu như trước đây, sản phẩm chè của gia đình tôi rất vất vả để tìm kiếm đầu ra thì nay đã được HTX ký hợp đồng bao tiêu toàn bộ với giá bán cao hơn trước khoảng 20%. Hiện tại, mỗi lứa gia đình tôi thu khoảng 2 tạ chè khô các loại. Giá bán tùy thuộc vào từng loại chè nhưng loại thấp nhất mà gia đình tôi đang cung ứng ra thị trường có giá 350 nghìn đồng/kg (chè búp xanh bình thường), cao nhất là 3 triệu đồng/kg (chè Đinh hảo hạng). Trung bình mỗi năm gia đình tôi thu nhập khoảng 600-700 triệu đồng từ cây chè.
Chị Ngô Thị Ngoan, xóm Cây Si, xã Phúc Xuân cho biết: Trước đây, gia đình tôi thường sử dụng từ 15-20kg phân bón/sào chè thì nay chỉ bón 5-7 kg/sào. Mặc dù sử dụng lượng phân bón ít hơn nhưng năng suất không hề giảm, chè ít sâu bệnh hơn và chất lượng cao hơn hẳn, chè đậm hơn, hương vị thơm hơn, nước trong. Đặc biệt, khi áp dụng quy trình sản xuất này, chúng tôi tuyệt đối không sử dụng các loại thuốc trừ sâu hóa học mà chỉ sử dụng thuốc vi sinh theo liều lượng hợp lý, đảm bảo thời gian cách ly an toàn nên người tiêu dùng có thể tuyệt đối yên tâm về chất lượng sản phẩm chúng tôi cung cấp ra thị trường.
Hiện nay, hơn 50 thành viên của HTX Chè Tân Hương đều đã áp dụng theo quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn UTZ với diện tích gần 20ha. Trung bình mỗi năm, HTX cung ứng ra thị trường khoảng 30 tấn chè búp khô các loại. Chè của thành viên HTX làm ra đến đâu đều được tiêu thụ hết đến đó với giá bán trung bình từ 250-300 nghìn đồng/kg (cao hơn những vùng chè khác từ 20-30%). Hiện nay, sản phẩm chè an toàn của HTX không chỉ gây dựng được thương hiệu và chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước mà đã bắt đầu được một số doanh nghiệp đặt hàng xuất khẩu. Doanh thu năm 2015 của HTX đạt gần 6,5 tỷ đồng; dự kiến năm 2016 sẽ đạt khoảng 8,5 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của thành viên đạt 6-7 triệu đồng/người/tháng.
Theo thống kê, Thái Nguyên hiện có gần 200 HTX, làng nghề trồng và chế biến chè, tuy nhiên, thương hiệu chè Thái Nguyên những năm qua vẫn chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng một phần do những hạn chế trong phương thức canh tác, ý thức sản xuất sản phẩm sạch của người dân… Chính vì vậy, việc áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế UTZ Certified như ở HTX Chè Tân Hương đã và đang được xem là giải pháp quan trọng giúp cho ngành sản xuất, chế biến chè của tỉnh tháo gỡ khó khăn, vươn ra thị trường thế giới nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.



