Sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu

Thu Hiên 13:41, 23/12/2025

Dưới tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, ngành Nông nghiệp buộc phải thay đổi để thích ứng. Tại Thái Nguyên, từ những thửa ruộng lúa được tưới nước luân phiên đến các vùng chè hữu cơ, sản xuất nông nghiệp đang dần chuyển theo hướng tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải và phát triển bền vững.

Bà con xóm Bản Đông (xã Ôn Lương) được tập huấn quy trình canh tác đồng bộ và ghi chép nhật ký sản xuất.
Bà con xóm Bản Đông (xã Ôn Lương) được tập huấn quy trình canh tác đồng bộ và ghi chép nhật ký sản xuất.

Vụ xuân năm 2025, trên cánh đồng xóm Bản Đông xã Ôn Lương, 101 hộ dân đã tham gia mô hình canh tác lúa theo phương pháp tưới ướt - khô xen kẽ (AWD) trên diện tích 12ha.

Mô hình do Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh phối hợp với Công ty CP Net Zero Carbon triển khai, nhằm giảm phát thải khí metan, hướng tới xây dựng tín chỉ carbon trong nông nghiệp. Khi tham gia mô hình, thay vì canh tác theo tập quán giữ nước ngập ruộng suốt vụ, bà con bố trí mương nhỏ tại mỗi thửa ruộng để điều tiết nước theo từng giai đoạn sinh trưởng của cây lúa.

Bà Phan Thị Hải, xóm Bản Đông, cho biết: So với cách làm cũ, mô hình này giúp giảm hơn 10% lượng đạm, tiết kiệm đáng kể nước tưới. Lúa cứng cây, ít sâu bệnh, bà con yên tâm hơn trước thời tiết thất thường.

Cùng với thay đổi lượng nước canh tác, bà con xóm Bản Đông cũng được tập huấn quy trình canh tác đồng bộ và ghi chép nhật ký sản xuất. Ứng dụng NetZero Carbon được sử dụng để cập nhật quá trình sản xuất trên nền tảng số. Chế phẩm sinh học giúp phân hủy rơm rạ ngay tại ruộng, tận dụng làm phân bón, vừa cải tạo đất, vừa giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.

Không chỉ tại xã Ôn Lương, nhằm ổn định năng suất trong điều kiện thời tiết cực đoan, thời gian qua, nhiều nông dân trong tỉnh đã chủ động chuyển sang canh tác hữu cơ, sử dụng phân bón sinh học, lựa chọn các giống lúa chịu hạn, chống sâu bệnh tốt như J02, Thụy Hương 308… Ở khu vực miền núi, vùng cao, những diện tích lúa kém hiệu quả được chuyển sang trồng cây ăn quả, ngô, dưa chuột… nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tăng thu nhập cho người dân.

Với chè, cây trồng chủ lực của tỉnh, phần lớn các hộ sản xuất đã áp dụng VietGAP, hữu cơ, bảo tồn giống chè trung du bản địa để thích ứng tốt hơn với điều kiện khí hậu, địa hình. Tiêu biểu là mô hình sản xuất chè hữu cơ ứng dụng công nghệ vi sinh, sản xuất xanh, tuần hoàn, thích ứng với biến đối khí hậu được triển khai tại Hợp tác xã nông nghiệp Bản Mộc, xã Yên Bình triển khai trong năm 2025. Mô hình sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học thay thế hóa chất; tái sử dụng phụ phẩm từ cây chè để ủ phân, hình thành chuỗi sản xuất tuần hoàn.

Mô hình sản xuất chè hữu cơ của HTX nông nghiệp Bản Mộc, xã Yên Bình.
Mô hình sản xuất chè hữu cơ của HTX nông nghiệp Bản Mộc, xã Yên Bình.

Anh Ma Văn Thắng, thành viên Hợp tác xã nông nghiệp Bản Mộc chia sẻ: Sản xuất hữu cơ giúp chúng tôi giảm chi phí sản xuất, bảo vệ sức khỏe người làm chè và môi trường đất, nước. Quan trọng hơn, cây chè chống chịu tốt hơn với hạn hán, nắng nóng, sản phẩm dễ tiếp cận thị trường chất lượng cao.

Thực tế từ những mô hình cụ thể trên đồng ruộng, nương chè, có thể thấy sản xuất nông nghiệp ở Thái Nguyên đang chuyển từ bị động trước thời tiết sang chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây cũng là hướng đi phù hợp với chiến lược chung của tỉnh trong bối cảnh khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp.

Đồng thời, trước những thách thức của biến đổi khí hậu, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 122/NQ-CP về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Mục tiêu đến năm 2030 là xây dựng hạ tầng bền vững ứng phó thiên tai, kiểm soát phát thải khí nhà kính, sử dụng hiệu quả tài nguyên và cải thiện chất lượng môi trường sống. Theo đó, 100% khu công nghiệp phải có hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn; tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn đạt tối thiểu 95% ở đô thị và 90% ở nông thôn; độ che phủ rừng duy trì trên 46%.

Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, các mô hình giảm phát thải, thích ứng khí hậu được xác định là trụ cột quan trọng thông qua thay đổi tập quán canh tác, lựa chọn giống cây phù hợp, ứng dụng công nghệ sinh học và công nghệ số.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tiếp tục tác động sâu rộng, những mô hình nông nghiệp thích ứng tại Thái Nguyên không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt mà còn tạo nền tảng cho phát triển bền vững lâu dài. Từ cánh đồng lúa tưới nước luân phiên đến những nương chè hữu cơ, quá trình thích ứng đang được hiện thực hóa bằng những thay đổi cụ thể, góp phần bảo vệ sinh kế người dân và môi trường sống trong tương lai.