* Ngày 29-3-1938, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã được triệu tập tại làng Tân Thới Nhất (Gia Định) với sự tham dự của các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Vǎn Cừ, Nguyễn Chi Diểu... Nghị quyết của Hội nghị đã đề cập tới chính sách cai trị của chính quyền Đông Dương, phong trào quần chúng và công tác nội bộ Đảng. Bản nghị quyết cũng vạch rõ nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới như: Thực hiện mặt trận thống nhất dân chủ, công tác quần chúng, củng cố tổ chức Đảng, đảm bảo giao thông liên lạc, kết hợp giữa hoạt động bí mật và công khai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, huấn luyện và quan hệ với các đảng phái chính trị khác. Tại Hội nghị này đồng chí Nguyễn Vǎn Cừ được cử làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương.
* Vào ngày 29-3-1945, toàn quyền Nhật ở Đông Dương ra nghị định áp đặt việc toàn cõi Đông Dương thực hiện tính giờ theo múi thứ 9 (Múi giờ mà Nhật Bản thực hiện). Theo đây thời gian được tính ở Đông Dương sẽ nhanh lên 120 phút.
Sau khi phát xít Nhật đại bại, cách tính giờ ở Đông Dương lại trở lại tương ứng múi giờ thứ 7. Trong những nǎm nước nhà bị chia cắt 2 miền, ở miền Bắc Chính phủ ta ra quyết định chính thức tính theo múi thứ 7, ở miền Nam chính quyền Ngụy Sài Gòn lại quy định áp dụng theo múi giờ thứ 8. Từ tháng 5-1975 trên toàn lãnh thổ Việt Nam giờ pháp định được tính thống nhất theo múi giờ thứ 7.
* Chiều ngày 29-3-1973 tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, ta đã trao trả cho phía Hoa Kỳ những phi công Mỹ cuối cùng bị bắt trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Toán phi công Mỹ đầu tiên được ta trao trả vào ngày 12 tháng 2 nǎm 1973.
Theo hiệp định Pari về Việt Nam ký ngày 27-1-1973 Mỹ cam kết chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Vì vậy ngày 29-3-1973 những tên Mỹ cuối cùng phải rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của Quân giải phóng và Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Ngày 29-3-1975, chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi bằng trận quân ta giải phóng Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai của miền Nam. Chiến dịch này mở đầu ngày 21-3-1975.
Từ những trận tiến công phối hợp với mặt trận tây Nguyên theo kế hoạch chiến lược thống nhất khi thời cơ lớn xuất hiện quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang quân khu Trị Thiên, quân khu 5, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh, đã chuyển hoá mau lẹ, phát triển thành một chiến dịch hợp đồng binh chủng có quy mô lớn. Trong chiến dịch này, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đoàn 1 và quân khu 1 của địch, đập tan hệ thống phòng thủ kiên cố của chúng, giải phóng 5 tỉnh liền nhau là Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có 2 thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng.