Tính dân chủ: Điểm nhấn quan trọng của Hiến pháp 2013

08:18, 22/10/2014

Ở Việt Nam, sự ra đời của Hiến pháp gắn với chính thể Cộng hoà dân chủ nhân dân. Nói về sự ra đời của Hiến pháp có thể phân tích do nhiều nguyên nhân, nhưng suy cho cùng, yếu tố dân chủ là nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất.  

Báo TNĐT xin giới thiệu bài viết của Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương, Đại học Luật Hà Nội về vấn đề này.

 

Đặt quyền con người, quyền công dân lên vị trí thứ hai

 

Bản Hiến pháp (HP) đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ là HP 1946. Bản HP này do Quốc hội đầu tiên của nhân dân Việt Nam xây dựng và thông qua. Lời nói đầu của bản HP này đã xác định rõ nhiệm vụ của HP: 

 

“…Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản HP đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng HP Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

 

Kế thừa các nguyên tắc đó của bản HP đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ, các bản HP 1959, HP 1980,  HP 1992 và HP 2013 đã phát triển, mở rộng tính dân chủ cho phù hợp với sự phát triển của xã hội và xu thế hội nhập, toàn cầu hoá.

 

HP 2013 mang tính chất của bản HP XHCN được thể hiện thông qua Lời nói đầu và 11 chương. Tuy nhiên, nếu xét về thứ tự của các chương thì so với các bản HP trước đó của nước ta, HP mới đã đặt quyền con người, quyền công dân lên vị trí thứ hai, sau chế độ chính trị (giống với HP 1946 của nước ta và HP của nhiều nước hiện nay).

 

Theo chúng tôi, đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về mặt cơ học mà là sự nhận thức về dân chủ, về trách nhiệm của HP, của cả hệ thống chính trị, nhất là của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân. Từ đó dẫn đến việc quy định về bộ máy nhà nước, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở các chương V, VI, VII, VIII, IX, X, trong đó đặc biệt nói đến nhiệm vụ của TAND, VKSND về nội dung này.

 

Về hệ thống chính trị của Nhà nước, HP mới tiếp tục khẳng định ba bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (TQVN) và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Tuy nhiên, để đảm bảo dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, HP mới đã làm rõ hơn vai trò chủ thể quyền lực nhà nước của nhân dân ở Điều 2 “… Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây là cơ sở pháp lý cho việc xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước. Đó cũng là một biện pháp nhằm hạn chế tối đa việc lạm dụng quyền lực nhà nước để xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đã được HP thừa nhận, bảo vệ.

 

Về trách nhiệm của Đảng CSVN trước nhân dân, HP mới đã bổ sung quy định tại điều 4: “Đảng CSVN… đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam… Đảng CSVN gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.

 

Như vậy, Đảng CSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo, về các quyết định của Đảng. Nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước có quyền giám sát mọi hoạt động của Nhà nước, của Đảng.  Điều này sẽ hạn chế tối đa sự độc quyền trong lãnh đạo. Điều tiến bộ của HP mới ở đây là cả Nhà nước và Đảng đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vậy cơ chế của vấn đề là gì có lẽ vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ của HP.

 

Với vị trí là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận TQVN được bổ sung trách nhiệm là người đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội (Điều 9 HP 2013).

 

Về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, nếu như các bản HP trước kia Nhà nước chỉ công nhận và bảo vệ các quyền đối với những người có quốc tịch Việt Nam (quyền đối với người nước ngoài, người không quốc tịch rất hạn chế) thì đến HP 2013, Nhà nước đã thừa nhận các quyền đối với mọi người (quyền con người). Sẽ thật sự là khiếm khuyết khi mà sự dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của Nhà nước lại chỉ đặt ra đối với công dân của nước mình. Nền kinh tế thị trường, sự hội nhập, giao lưu, hợp tác là nhu cầu tất yếu của mỗi quốc gia, là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. HP 2013 đã tránh được khiếm khuyết này.

 

Hiến pháp khẳng định “Nhân dân làm chủ”

 

HP mới đã khẳng định nước Cộng hoà XHCN Việt Nam  do Nhân dân làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng nhiều hình thức khác nhau mà trong đó làm chủ thông qua Nhà nước (bộ máy nhà nước) là một hình thức quan trọng. Để đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân thông qua bộ máy nhà nước, Bộ máy nhà nước theo HP 2013 đã có nhiều đổi mới để đáp ứng nhiệm vụ này, cụ thể:

 

Thứ nhất, HP mới đã xác định rõ quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về Toà án. Như vậy, vị trí của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước đã được xác lập, là cơ sở pháp lý cho việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước.

 

Thứ hai, HP mới đã xác định lại nhiệm vụ của toà án nhân dân trong bộ máy nhà nước. Điều này là rất cần thiết vì nếu như Toà án chỉ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ XHCN như HP trước kia là chưa đủ. Điều 102 HP 2013 quy định Toà án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trước khi bảo vệ chế độ xã hội là dân chủ và cần thiết của một Nhà nước pháp quyền. Muốn vậy thì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án cũng phải được đổi mới. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, các nguyên tắc xét xử theo thủ tục rút gọn, xét xử kín trong trường hợp bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã được quy định trong HP. Đây là những nguyên tắc thật sự dân chủ trong xét xử mà đã được quy định trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, của một nền tư pháp dân chủ, hiện đại.

 

Thứ ba, liên quan đến việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, HP 2013 đã bổ sung một quy định rất quan trọng nhằm đảm bảo quyền giám sát của Nhân dân về nội dung này tại Khoản 2 Điều 110 là “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”.

 

Thứ tư,  HP 2013 đã bổ sung hai thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, đó là Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc thành lập Hội đồng Bầu cử quốc gia sẽ đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động bầu cử. Còn đối với Kiểm toán Nhà nước thì thực tế cơ quan này đã có và đang hoạt động. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể do vậy gây ra nhiều cản trở cho hoạt động của nó trong thực tế, và như vậy tính pháp chế của nó hầu như bỏ ngỏ.

 

Thứ năm, bảo vệ HP cũng là một nội dung được quy định trong HP. Tuy nhiên, so với các bản HP trước đó, vấn đề này được quy định chặt chẽ hơn theo xu hướng đảm bảo dân chủ. Điều 119 HP 2013 quy định:  “... Mọi hành vi vi phạm HP  đều bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,… và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ HP. Cơ chế bảo vệ HP do luật định”

 

Như vậy, cho dù phương án thành lập Hội đồng Hiến pháp không được thông qua nhưng  những quy định của HP 2013 về vấn đề này cũng cho thấy phần nào nhận thức của Đảng và Nhà nước về sự cần thiết phải bảo vệ HP vì bảo vệ HP chính là bảo vệ chế độ dân chủ đã được quy định trong HP.