Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã hoàn thành dự thảo lần 2 Thông tư liên tịch (TTLT) quy định phối hợp thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Dự thảo TTLT này gồm 05 chương 19 điều, quy định phối hợp thực hiện tha tù trước thời hạn có điều kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nguyên tắc, thời điểm, hồ sơ, trình tự, thủ tục xét, đề nghị, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện cho phạm nhân và thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, hủy quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện và rút ngắn thời gian thử thách cho người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Theo đó, dự thảo TTLT này áp dụng đối với Tòa án, Viện Kiểm sát, Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an, Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Quốc phòng, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu; trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện (sau đây gọi chung là cơ sở giam giữ); phạm nhân, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thực hiện tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Thời điểm xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được quy định rõ tại Điều 4 dự thảo TTLT, thực hiện mỗi năm 03 (ba) đợt, vào các dịp: Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và Tết Nguyên đán.
Điều 6 của dự thảo TTLT quy định về hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện, trong đó, hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện gồm các tài liệu quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 368 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các tài liệu sau: Bản án thể hiện phạm nhân phạm tội lần đầu; Tài liệu thể hiện phạm nhân có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt; Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên; Tài liệu chứng minh đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự; Tài liệu chứng minh người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đang chấp hành án phạt tù dưới 18 tuổi…
Dự thảo TTLT cũng quy định rõ tại Chương III việc xét, đề nghị và quyết định rút ngắn thời gian thử thách, trong đó, việc rút ngắn thời gian thử thách của người được tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 66 Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể như sau:
Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện có thể được rút ngắn thời gian thử thách nếu có đủ các điều kiện như: Đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời gian thử thách; Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; Được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao quản lý, giáo dục đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
Việc xét rút ngắn thời gian thử thách được thực hiện mỗi năm 03 (ba) đợt, vào các dịp: Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4), Ngày Quốc khánh (2/9) và Tết Nguyên đán.
Trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện dưới 18 tuổi hoặc lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì thời gian rút ngắn thời gian thử thách một lần có thể cao hơn nhưng không quá 1,5 lần so với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Trường hợp người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã được rút ngắn thời gian thử thách nhưng sau đó vi phạm phải đưa trở lại cơ sở giam giữ tiếp tục chấp hành án thì thời hạn chấp hành án phạt tù được trừ đi thời gian đã được rút ngắn./.