Năm 1936, trong quá trình tu sửa từ đường, con cháu của dòng họ đã tìm thấy long đao mà tổ tiên của họ Phạm ở làng Ngọc Tỉnh (thị trấn Xuân Trường - Nam Định) đã xông pha trận mạc, bách chiến bách thắng. Đây là một trong 3 báu vật của Thái Tổ Nhân Minh Cao Hoàng Đế Mạc Đăng Dung tồn tại còn khá nguyên vẹn được ghi chép lại trong sử sách.
Thích ứng với… họa
Năm 1527, khi triều Lê Sơ suy tàn, hoàng đế Lê Cung Hoàng đã hạ chiếu nhường ngôi cho Thái sư Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung (1483-1541) là người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, phủ Kim Môn, trấn Hải Dương (nay là làng Cổ Trai, Ngũ Đoan, Kiến Thụy, Hải Phòng).
Nhờ có thanh đại long đao - vũ khí bất ly thân - Mạc Đăng Dung đã đoạt chức vô địch trong cuộc thi tuyển dũng sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long thời Lê Sơ. Ông đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (Võ Trạng nguyên), được sung quân Túc vệ.
Với thanh đại long đao, Mạc Đăng Dung đã xông pha trận mạc và bách chiến bách thắng trong các cuộc dẹp loạn: Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ, Lê Quảng Độ rồi Trần Thăng ở Thái Nguyên, Lạng Sơn đến Nguyễn Hoằng Dụ ở Thanh Hóa. Do lập nhiều công lớn, dẹp loạn các phe phái, bảo vệ triều đình nên ông được phong tới chức Thái sư, tước An Hưng vương, đức trí bậc nhất triều đình.
Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập ra triều Mạc, lấy niên hiệu Minh Đức. Trị vì đến năm 1529, ông nhường ngôi và trao lại thanh đại long đao cho con cả Mạc Đăng Doanh. Sau đó, ông về nơi sinh thành là làng Cổ Trai xây dựng Dương Kinh - kinh đô thứ hai của triều Mạc, đô thị ven biển đầu tiên của Việt Nam. Tại đây, có thương cảng sầm uất, quân đội hùng mạnh, thậm chí có cả trường Quốc gia học, tương đương với Quốc Tử Giám ở Thăng Long.
Khi Mạc Thái Tổ băng hà, đại long đao được đem về thờ ở lăng miếu làng Cổ Trai. Năm 1592, nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long, Mạc Đăng Thận (cháu 4 đời của Mạc Đăng Dung), là người coi giữ lăng miếu, đã giả làm nhà buôn, mang theo long đao của Tiên đế xuống thuyền rời Đồ Sơn. Đoàn thuyền tiến về phía Nam, vào vùng cửa sông Hồng, đến cửa Hà Lạn thì dừng lại, tìm đến đất Kiên Lao (nay là xã Xuân Kiên, Xuân Trường, Nam Định) định cư. Nghe lời Quốc công Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông cùng gia quyến đổi sang họ Phạm để tránh bị nhà Trịnh truy sát diệt vong. Ông đổi họ Mạc thành họ Phạm, song vẫn giữ lại bộ thảo đầu của chữ “Mạc” để con cháu đời sau ghi nhớ tín hiệu nhận ra nhau. Trải qua bốn đời ở vùng Kiên Lao, dòng họ Phạm gốc Mạc có sự phân chi. Ông Phạm Công Úc được giao mang đại long đao về định cư ở vùng Ngọc Tỉnh và thờ ở từ đường chi họ Phạm gốc Mạc. Còn Phạm Công An được giao ở lại Kiên Lao để thờ cúng tổ tiên và Phạm Đình Tú xuống Hoành Tứ (Giao Thủy) được giao lưu giữ và bảo vệ gia phả bằng đồng.
Trải qua bao biến cố thăng trầm, theo gia phả dòng họ, thời vua Lê Dụ Tông, hai người con trai Phạm Công Úc là Phạm Công Dục và Phạm Công Dắt lên kinh đô thi võ. Hai ông đã xin vua cha cho phép làm lễ rước thanh long đao của Mạc Thái Tổ, cầu xin anh linh Tiên đế và linh khí bảo đao phù trợ. Khoa thi ấy, cả hai ông đều đỗ võ quan, được triều đình tuyển dụng.
Ông Phạm Công Dục theo vua Lê đi dẹp loạn, sau được thăng tới chức Đô thống phủ Tả Đô đốc Lê triều Kiệt trung tướng quân, tước Dục Trung hầu. Ông Phạm Công Dắt được phong chức Quản Hữu chấn cơ Tín nghĩa Đô úy, tước Phạm sứ hầu. Từ đấy, linh ứng bảo đao của Mạc Thái Tổ độ trì cho con cháu hậu duệ nhiều đời sau đỗ đạt.
Đến triều vua Minh Mạng (1821), Phan Bá Vành khởi binh, chống lại triều đình, muốn dùng long đao của Mạc Thái Tổ làm linh khí trên chiến địa. Họ Phạm ở Ngọc Tỉnh đã kịp thời chôn giấu đại long đao, để tránh mất long đao của Tiên đế. Nhiều năm trôi qua, dấu tích nơi chôn giấu không còn, thanh long đao bị thất lạc.
Bảo vật 500 tuổi
Ông Phạm Chí Thiện bên thanh long đao bách chiến bách thắng
Ông Phạm Chí Thiện, người hiện cai quản từ đường họ Phạm ở Ngọc Tỉnh cho biết: “Theo truyền thuyết, thời đó, gò đất phía Đông Nam từ đường họ Phạm làng Ngọc Tỉnh bỗng nhiên “phát hỏa”, hầu như năm nào cũng xảy ra vài vụ cháy tương tự, điều kỳ lạ là lửa tự nhiên bốc cháy rôi phút chốc lại tắt. Nhiều lần lửa bốc lên, cháy cả vào rơm rạ, quần áo của dân làng. Vì thế, dân trong vùng gọi gò đất này là gò Con Hỏa”.
Năm 1936, họ Phạm làng Ngọc Tỉnh tiến hành trùng tu từ đường, đào rãnh thoát nước đã vô tình tìm thấy đại long đao dưới lòng đất sau thời gian dài thất lạc. Điều kỳ lạ hơn là đầu thanh đại long đao chĩa thẳng vào gò Con Hỏa. Khi tìm thấy, đại long đao đã bị gỉ sét ăn mòn như hiện trạng bây giờ. Họ Phạm đã rước về từ đường thờ phụng bảo quản trong lớp mỡ bò. Theo lời đồn, kể từ khi tìm lại được đại đao, gò Con Hỏa không còn phát hỏa nữa”.
Để bảo vệ thanh đại long đao khỏi sự phá huỷ của thời gian, sự vô minh của con người, các thế hệ họ Phạm gốc Mạc ở đất Thiên Trường đã sử dụng đủ mọi phương kế. Nay thể theo ý nguyện của các chi họ Mạc, gốc Mạc trên toàn quốc, chi họ Phạm gốc Mạc đồng ý tổ chức lễ rước thanh đại long đao của Thái tổ Mạc Đăng Dung hồi cố đất Dương Kinh - nơi phát tích vương triều Mạc (1527-1592). Đại long đao hiện được thờ tại Khu tưởng niệm các vua nhà Mạc ở thôn Cổ Trai, xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đúng ngày lễ chính kỵ lần thứ 469 Đức Mạc Thái Tổ (1541-2010).
Thanh long đao dài 5 thước 10, nặng 40 cân ta (Theo ông Phạm Chí Thiện, mỗi thước bằng 40cm – PV). Đây là thanh đao khá đặc biệt, phần cuối lưỡi đao khắc hình đầu rồng đang há miệng nuốt lấy lưỡi đao. Đặc biệt thanh long đao đã từng cùng vua Mạc Đăng Dung xông pha chiến trận và bách chiến bách thắng. Đến nay, tuổi đời của bảo vật này đã hơn 500 năm tuổi. Được biết, hiện nay ở châu Á chỉ còn hai binh khí được lưu thờ và xem là vật Thái Bảo: Một là thanh đao của Tống Thái Tổ (Bắc Tống - Trung Quốc) và thứ hai là thanh long đao của Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) đang được lưu thờ tại khu tưởng niệm vương triều Mạc (Hải Phòng).
Trải qua 500 năm tuổi và 90 năm bị ăn mòn do chôn giấu dưới lòng đất, nhưng cơ bản thanh long đao vẫn giữ được hình dạng và kích thước không khác nhiều so với lúc ban đầu, dù bị sứt mẻ và gỉ sét nhiều chỗ.