Họ là những chiến sĩ được “cầm chìa khóa” mở cánh cửa cho từng trận đánh và cũng là những trợ thủ khai màn chiến dịch Hồ Chí Minh tiến thẳng vào Sài Gòn thống nhất đất nước năm 1975. Sau mỗi nhiệm vụ hoàn thành, họ vừa là lực lượng vừa trinh sát, vừa tham mưu và trực tiếp bảo vệ thành quả chiến thắng.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng bộ đội thông tin có vai trò hết sức quan trọng trong tham mưu tác chiến của quân đội. Bí mật, lặng lẽ, ngôn ngữ “tạch-tè”, ra dấu, chiến đấu lặng im… là những gì mà bộ đội trinh sát, thông tin phải thuần thục. Cựu chiến binh Tạ Hùng Quang ở phường Quang Trung, T.P Thái Nguyên nhớ lại: Mùa Xuân năm 1966, từ Thái Nguyên, chúng tôi lên đường nhập ngũ và bắt đầu từ năm 1967 được tăng cường vào mặt trận Tây Nguyên để hiệp lực mở đường tiến về Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Là bộ đội trinh sát thông tin, nên mặt trận của tôi là đi trước và bám “thắt lưng” địch để tham mưu tác chiến cho pháo binh, bộ binh... tuyến sau. Ngôn ngữ của bộ đội thông tin là ngôn ngữ “số” (mã hóa theo các số đếm). Để bảo đảm bí mật, chính xác thì không được nổ súng, sau mỗi trận đánh lại thay đổi ngôn ngữ mã số. Thông tin thông suốt, chính xác nghĩa là đã cầm được chìa khóa mở cửa cho mặt trận…
Gần 80 tuổi, nhưng ông Quang vẫn giữ chất giọng dõng dạc, ngắn gọn, chính xác như khi truyền tin về chỉ huy. Ông kể: “Ngoài mặt trận, máy bộ đàm thông tin còn quý giá hơn cả tính mạng của mình. Mất sóng, nghĩa là tê liệt tác chiến và cũng có thể cả đơn vị rơi vào tầm pháo hạm từ xa của địch. Chỉ một lần mất sóng tại trận địa Đắk Tô (tỉnh Kon Tum), tôi đã dùng dây mìn làm ăng ten leo lên ngọn cây kết nối sóng báo tin khẩn cho tuyến sau tác chiến. Tức thì, hỏa lực địch gần như san phẳng vị trí trinh sát thông tin nhằm vô hiệu tác chiến. Đất đá vùi kín người cùng chiếc máy thông tin ôm gọn trong lòng, tôi đã kịp báo tuyến sau tấn công. Cũng chỉ là con số 1-2-3 vừa dứt, pháo của ta dập tan trận địa địch, bộ binh đạp rào gai kẽm mở toang đường tiến công góp phần quan trọng giải phóng thị trấn Đắk Tô và tiến lên giải phóng Tây Nguyên. Tôi thầm nhủ, nếu hy sinh thì cũng đã thanh thản hoàn thành nhiệm vụ để đồng đội tiến lên. Tháng 6-1968, tại căn cứ bí mật rừng Khọp, tôi đã được đơn vị phong tặng danh hiệu “Dũng sĩ quyết thắng” và được chính thức đứng vào hàng ngũ của Đảng… Bấy giờ tôi càng thấm thía một điều - Nơi chiến trường, hy sinh không sợ bằng không hoàn thành nhiệm vụ. Không hoàn thành nhiệm vụ đồng nghĩa với việc đồng đội, đơn vị còn chịu nhiều tổn thất, mặt trận còn nhiều hy sinh, đường tổng tiến công còn gian nan. Đó cũng là động lực thôi thúc tôi luôn rèn luyện, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trên tất cả các mặt trận. Cho đến khi chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, năm 1979, tôi cũng đã cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó”.
Lực lượng thông tin Lữ đoàn 601, Quân khu 1 làm chủ phương tiện hiện đại sẵn sàng chiến đấu.
Với những cựu chiến binh Trung đoàn Thông tin 136 lại có những nhiệm vụ đặc biệt hơn bộ đội thông tin tác chiến. Có lẽ đây là một trong những đơn vị “đặc biệt”, bởi không thuộc phiên chế quân, binh chủng nào mà đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Bộ đội Thông tin. Trọng trách của đơn vị là bảo đảm thông tin liên lạc bí mật, thông suốt từ miền Bắc đến các chiến trường miền Nam. Để tăng cường cho chiến trường miền Nam, những năm 1972-1975, hơn 100 người con ưu tú của Thái Nguyên đã được bí mật lựa chọn giao nhiệm vụ trong đơn vị “đặc biệt” này. Ông Đỗ Văn Bình là thương binh hạng 3/4, trú tại phường Chùa Hang (T.P Thái Nguyên) không giấu nổi xúc động nhớ lại: Khi vào chiến trường, mỗi tổ công tác thường thì 3-4 người, có nhiệm vụ bảo đảm thông tin, liên lạc tuyến dây từ 20-30km và ở độc lập trong rừng sâu của Tây Nguyên. Không phải trực tiếp giáp mặt như ngoài tuyến lửa, nhưng tính mạng luôn bị rình rập bởi những trận tập kích của định hoặc cánh quân Phun-rô. Mùa mưa, có những đêm nằm trong rừng, bất chợt bị tập kích mà không biết đạn bắn từ đâu và không định được đường ẩn nấp. Hàng ngày phải đi nối dây, giấu dây sau khi khắc phục các điểm bị địch đánh phá, đặt mìn. Sau giải phóng miền Nam 30/4/1975, chúng tôi vẫn ở lại giữa rừng Đắk Lắk bảo đảm liên lạc về Bộ Tư lệnh, chuyển tải thông tin chỉ huy từ Bắc vào Nam thông suốt và bảo vệ tuyến thông tin tuyệt mật. Ông Bình nhớ lại: Rạng sáng 15/7/1975, tổ công tác của ông có các đồng đội: Nguyễn Chí Dũng ở phường Phan Đình Phùng, Nguyễn Văn Quang ở phường Quang Trung (T.P Thái Nguyên) nhận nhiệm vụ đi khắc phục sự cố tuyến dây khu vực thị trấn Mỹ Thạch, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Người đeo súng, người gùi dây vượt núi trong làn sương mờ ảo, khi chỉ còn cách điểm dây đứt 20m, bất ngờ một cơn địa chấn rung chuyển cả vùng, khói đen bốc lên phủ kín, ông chỉ kịp giữ một đầu dây và người bay lên không trung rồi bất tỉnh. Khi tỉnh giấc thì đã ở bệnh viện quân y dã chiến. Sau này ông mới biết là bị dính loại mìn chống tăng của Phun-rô mới cài đặt hôm trước. Người đồng đội của ông là Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Văn Quang đã anh dũng hy sinh ngay tại trận địa.
Còn ông Trần Quang Hòa, trú tại phường Túc Duyên (T.P Thái Nguyên) hồi tưởng lại: “Tháng 7-1976, Tây Nguyên đang mùa mưa, một tổ công tác được tăng cường đi huyện Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk làm nhiệm vụ khắc phục sự cố. Sau khi hoàn thành công việc, tất cả cùng ăn bữa tối rồi chia tay, để lại 3 chiến sĩ làm nhiệm vụ. Vừa chia tay bỗng dưng trong đêm mưa, đạn súng cối nã ào ào về phía lán. Mỗi người bạt một ngả, sáng sau trở lại thì tất cả đã thành bãi đất cháy xém nham nhở với gần 100 hố đạn cày xới”. Lặng đi trong giây lát rồi ông Hòa rưng rưng kể: “Tôi đi đào bới khắp nơi rồi gục xuống bên những người anh em, đó là liệt sĩ Nguyễn Văn Thực, trú tại phường Cam Giá và Nguyễn Thái Hà trú tại phường Trưng Vương”. Bấy giờ kẻ thù là những tên tàn quân Ngụy, những phiến quân Phun-rô, hàng ngày chúng vẫn đội lốt dân thường rình rập bộ đội, phá hệ thống thông tin.
Được biết Ban liên lạc Trung đoàn Thông tin 136 hiện còn hơn 60 thành viên thường xuyên duy trì sinh hoạt nhóm. Mặc dù cuộc sống mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả đều như anh em trong một nhà, bởi lẽ tất cả đều là người con đất Thái Nguyên, thanh xuân họ đã sát cánh bên nhau đi trước, về sau trên khắp các chiến trường.