Chiến thắng Đức Lập và giải phóng Gia Nghĩa đã cắt đứt tuyến đường chi viện của địch từ Đông Nam Bộ lên Tây Nguyên theo Quốc lộ 14 và từ Lâm Đồng sang theo Quốc lộ 28, làm cho địch rơi vào thế bị động, mất phương hướng chiến đấu.
Quân giải phóng đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 23 Ngụy trong trận Buôn Ma Thuột, tháng 3-1975. Ảnh tư liệu |
Vai trò quan trọng của chiến thắng Đức Lập
Chiến thắng Đức Lập (9/3/1975) đã phá vỡ tuyến phòng thủ phía tây thị xã Buôn Ma Thuột của địch, từ đó tạo đà cho Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, dẫn tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Quân lỵ Đức Lập (tỉnh Quảng Đức cũ - Đắk Mil ngày nay) có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự, kinh tế, chính trị, được xem như “cánh cửa thép” khống chế Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vùng biên giới Campuchia.
Tại đây, địch xây dựng các công sự kiên cố, vững chắc, chướng ngại vật dày đặc, có sân bay trực thăng dã chiến và trường huấn luyện biệt kích đóng tại khu vực xã Đắk Sắk. Lực lượng địch tại đây có 2 tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn xe tăng, 5 đại đội bảo an cùng với các đơn vị trinh sát, công binh trực thuộc Sư đoàn 23 được trang bị quân trang, vũ khí hiện đại.
Đến tháng 3-1975, trong Chiến dịch Tây Nguyên, Đức Lập được chọn là điểm mở đầu, then chốt để tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột. Xác định đánh căn cứ Đức Lập là một nhiệm vụ rất quan trọng, liên quan mật thiết với mục tiêu chính của chiến dịch là thị xã Buôn Ma Thuột, đích thân Thượng tướng Vũ Lăng - Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, đã dẫn đầu đoàn cán bộ của Mặt trận và của Sư đoàn 10 đi trinh sát Đức Lập.
Vào lúc 5h'55' ngày 9/3/1975, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 316 bộ đội chủ lực của ta phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng du kích của huyện Đức Lập đã đồng loạt nổ súng đánh vào quận lỵ Đức Lập.
Chưa đầy 3 tiếng sau, Trung đoàn 28 chiếm cứ điểm Núi Lửa; Trung đoàn 66 chiếm Sở Chỉ huy hành quân của Sư đoàn 23 địch. Riêng tại khu vực trung tâm, dựa vào hệ thống lô cốt, hầm ngầm kiên cố, địch chống trả rất quyết liệt. Sư đoàn 10 phải tổ chức nhiều đợt tiến công, đưa pháo hạng nặng vào gần, hạ nòng bắn thẳng. Tới 8'30' ngày 10/3/1975, ta mới làm chủ được quận lỵ.
Cùng ngày hôm đó, Sư đoàn 10 tiếp tục tấn công căn cứ Đắk Sắk, chiếm Đắk Song. Về cơ bản, trong ngày 10/3, toàn bộ tuyến phòng thủ của địch tại Đức Lập sụp đổ, Buôn Ma Thuột bị chia cắt, cô lập.
Chiến thắng Đức Lập là thắng lợi mang tính “nút thắt”, mở thông đường hành lang chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi để Sư đoàn 316 đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột 10/3/1975, tạo đà cho Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi.
Giải phóng Gia Nghĩa cắt đứt tuyến đường chi viện của địch
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tỉnh Quảng Đức (Đắk Nông ngày nay) là địa bàn trọng yếu của hành lang chiến lược Bắc-Nam, tuyến chi viện chiến lược từ Nam Tây Nguyên vào Đông Nam Bộ. Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Bộ Chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 đến 1976 và chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chủ yếu trong năm 1975.
Theo phương hướng đó, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976. Thị xã Buôn Ma Thuột được chọn là trận mở màn cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Vùng thị xã Gia Nghĩa và huyện Khiêm Đức là mục tiêu phối hợp cho mặt trận chính ở Buôn Ma Thuột.
Dưới sự chỉ đạo của các Tỉnh ủy Đắk Lắk, Lâm Đồng, Phước Long các huyện Kiến Đức, Đức Lập, Khiêm Đức, Đức Xuyên và thị xã Gia Nghĩa hừng hực khí thế bước vào cuộc tổng tấn công. Lúc này có nhiều nhân tố khách quan thuận lợi tác động tới chiến trường Nam Tây Nguyên.
Từ cuối tháng 12-1974 đến đầu năm 1975, hệ thống phòng thủ của địch từ Bù Đốp, Đồng Xoài, Phước Long đã bị ta quét sạch. Ngày 6/1/1975, tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng.
Sau khi Quân giải phóng đánh chiếm Đức Lập, Kiến Đức (ngày 9-3), Buôn Ma Thuột (ngày 10-3), quân địch thất thủ ở các nơi tháo chạy về Gia Nghĩa, tạo nên sự rối loạn nơi đây. Hệ thống phòng ngự của địch ở phía bắc và tây thị xã Gia Nghĩa hầu như tê liệt.
Trước tình hình đó, Huyện ủy họp đề ra nhiệm vụ giải phóng huyện và thị xã, trước mắt tổ chức chặn đánh địch rút quân từ Buôn Ma Thuột qua Gia Nghĩa về Lâm Đồng theo đường số 8. Ngày 22-3, địch ở Gia Nghĩa rút chạy theo đường Kim Đa xuống Di Linh bị lực lượng địa phương bám đánh, bắn cháy 2 xe.
Địch hoảng hốt bỏ cả xe pháo chạy trốn vào rừng về phía sông Đồng Nai. 5 giờ sáng 23/3/1975, lực lượng vũ trang của ta vào tiếp quản thị xã Gia Nghĩa.
Trưa 23-3, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng tung bay trước dinh Tỉnh trưởng Quảng Đức, Ty Cảnh sát và các công sở khác. Thị xã Gia Nghĩa và huyện Khiêm Đức hoàn toàn giải phóng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Quảng Đức kết thúc thắng lợi.
Chiều 26-3, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại thị xã Gia Nghĩa để chào mừng chiến thắng và chào mừng sự ra mắt của Ủy ban Quân quản thị xã. Tại Lễ mít tinh, đồng chí Trần Thành đọc bản “Chương trình hoạt động” của Ủy ban Quân quản thị xã, nêu rõ các nhiệm vụ là: Tổ chức và lãnh đạo Nhân dân nhanh chóng ổn định tình hình mọi mặt; khẩn trương xây dựng hệ thống chính quyền mới; trấn áp và truy quét bọn phản động còn đang ẩn náu trong thị xã; tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân dân từng bước ổn định và xây dựng thị xã vững mạnh.
Giải phóng Gia Nghĩa đã cắt đứt tuyến đường chi viện của địch từ Đông Nam Bộ lên Tây Nguyên theo Quốc lộ 14 và từ Lâm Đồng sang theo Quốc lộ 28, làm cho địch rơi vào thế bị động, mất phương hướng chiến đấu.
Có thể khẳng định, thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường.
Hệ thống phòng thủ của địch bị phá vỡ. Chiến trường miền Nam bị chia cắt thành hai cụm (Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn), chính quyền và Quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và rơi vào tình trạng hoàn toàn bị động.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin