Màn sương mù độc hại bao trùm các siêu đô thị châu Á, hàng trăm người chết vì lũ lụt và lở đất, lốc xoáy ập vào các bờ biển và các đám cháy rừng bùng phát dữ dội, hạn hán và sóng nhiệt chết người khiến các thị trấn và thành phố gần như cạn kiệt nước. Đó là những gì mà khu vực châu Á và Thái Bình Dương đã và đang phải trải qua trong năm 2019.
Không còn là hiện tượng bất thường, các nhà khoa học cho rằng, cuộc khủng hoảng khí hậu đang gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan hơn - và chúng đang gây ra hậu quả tàn khốc ở châu Á và Thái Bình Dương.
“Những chuỗi thiên tai không ngừng” trong hai năm qua “vượt xa những gì khu vực đã trải qua hoặc có thể dự đoán trước”, báo cáo của Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP) của Liên hợp quốc (LHQ) hồi tháng 8 đánh giá.
Những cuộc tuần hành kêu gọi hành động về khí hậu đã được thực hiện trong vô số diễn đàn, hội nghị thượng đỉnh và cam kết trong năm nay.
Trong khi nhiều người ở các nước phát triển coi khủng hoảng khí hậu là một vấn đề cấp bách nhưng sẽ ở trong tương lai, thì đối với hàng triệu người sống ở châu Á - Thái Bình Dương, cuộc khủng hoảng khí hậu đã chạm đến mọi phần của cuộc sống.
Những người ở tuyến đầu của khủng hoảng khí hậu nói rằng, phải có những thay đổi rõ rệt ngay từ bây giờ khi thế giới bước sang một thập kỷ mới.
Châu Á chịu tác động nặng nề nhất từ khủng hoảng khí hậu
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nơi có 60% dân số thế giới, là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất trước khủng hoảng khí hậu.
Nguyên nhân của vấn đề này là sự đô thị hóa nhanh chóng ở nhiều quốc gia châu Á, với tốc độ phát triển thường vượt qua quy hoạch cơ sở hạ tầng hợp lý. Sự bùng nổ dân số và sự di cư ồ ạt của người dân đến các thành phố để làm việc đang gia tăng áp lực cho nguồn cung cấp nước và thực phẩm.
Cơn bão Kammuri quét qua Philippines hồi đầu tháng 12.
Nhiều thành phố lớn của châu Á, bao gồm Mumbai, Thượng Hải, Bangkok, TP Hồ Chí Minh và Jakarta, nằm ở ven biển và trong vùng trũng khiến các thành phố này dễ bị tổn thương bởi nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt khác.
Các nước châu Á đang phát triển nhanh, công nghiệp hóa và phụ thuộc vào than đá đang tạo ra mức phát thải carbon dioxide ngày càng tăng, bất chấp những nỗ lực hướng tới năng lượng sạch hơn của các quốc gia như Ấn Độ và Trung Quốc.
Khi sự giàu có về vật chất tăng lên, thị trường tiêu dùng cũng như nhu cầu về các tiện ích phát thải nhiều khí nhà kính như điều hòa không khí, ô-tô và hàng hóa dùng một lần gia tăng.
Trong khi các thành phố giàu có như Hồng Kông (Trung Quốc) ở một mức độ nào đó có thể đủ khả năng chống lại thảm họa tự nhiên. Ở phần còn lại, dân số nghèo đói đang sống ở một số nơi bấp bênh nhất về môi trường trên Trái đất, nơi các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt có thể gây ra thảm họa cho cuộc sống, sản xuất lương thực, nguồn nước, kinh tế và cơ sở hạ tầng.
“Nếu chúng ta không có hành động khẩn cấp về khí hậu ngay bây giờ, chúng ta đang tiến tới sự gia tăng nhiệt độ hơn 3 độ C vào cuối thế kỷ, với những tác động có hại hơn đối với sức khỏe của con người”, Tổng thư ký Tổ chức Khí tượng Thế giới Petteri Taala cảnh báo trong một tuyên bố. “Chúng ta không còn cách nào khác là phải đáp ứng các mục tiêu của Thỏa thuận Paris."
Mực nước biển đang dâng cao
Đảo quốc nam Thái Bình Dương Tuvalu nằm ở vùng thấp đã được Chương trình Phát triển LHQ xếp vào loại “cực kỳ dễ bị tổn thương”.
Là một cư dân của đảo Samoa ở Thái Bình Dương, Giám đốc ủy ban Khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu tại Ban Thư ký Chương trình Môi trường khu vực Thái Bình Dương (SPREP) Tagaloa Cooper-Halo đã trải qua những hậu quả từ sự biến đổi khí hậu.
Bà Cooper-Halo nói rằng mực nước biển đang dâng cao dù trước đó dự kiến sự thay đổi sẽ xuất hiện trong 20 năm. Thực tế “chúng ta đang thấy nước biển dâng cao ngay lúc này”, bà Cooper-Halo nhấn mạnh.
Tuvalu là đảo quốc dễ bị tổn thương nhất bởi nước biển dâng.
Trong một báo cáo mang tính bước ngoặt trong năm nay, Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) của LHQ đã xác nhận rằng mực nước biển toàn cầu đang dâng cao nhanh hơn dự kiến.
Một nghiên cứu được công bố vào tháng 5 cho thấy, phát thải khí nhà kính ngày càng tăng, nhiệt độ ấm lên, các sông băng tan chảy và các tảng băng biến mất có thể khiến mực nước biển tăng hơn 2m vào cuối thế kỷ này nếu không kiểm soát được tình trạng phát thải khí nhà kính.
Nước biển dâng 2m sẽ khiến 187 triệu người phải rời bỏ nhà cửa, chủ yếu ở châu Á và các thành phố lớn như Thượng Hải. Một nghiên cứu khác cho thấy ở Đông-Nam Á, một phần của miền nam Việt Nam và Bangkok có thể chìm trong nước biển vào năm 2050.
Theo Chương trình phát triển của LHQ, thích nghi với mực nước biển dâng sẽ là thách thức chính đối với châu Á-Thái Bình Dương. Các biện pháp thích nghi bao gồm bảo vệ bờ biển và cơ sở hạ tầng, khôi phục rừng ngập mặn và xác định các khu vực có nguy cơ bị lũ lụt.
Bà Cooper-Halo cho hay, các quốc gia Thái Bình Dương buộc phải thích nghi, lắp đặt các trạm quan trắc đo mực nước biển dâng và tăng cường các vụ mùa chống chọi tốt hơn với nước mặn.
Bà cho biết thêm, chế độ ăn hằng ngày cũng đã thay đổi do lượng cá suy giảm vì đại dương bị axit hóa và san hô bị tẩy trắng.
“Khi các nguồn tài nguyên không còn dồi dào như trước đây, sự phụ thuộc của bạn sẽ thay đổi. Bạn trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào thực phẩm chế biến sẵn và do đó chúng ta phải nhập khẩu nhiều thực phẩm chế biến để thay đổi cách chúng ta ăn hằng ngày và do đó ảnh hưởng đến chúng ta sức khỏe”, bà Cooper-Halo nói.
Các cơn bão nhiệt đới và bão lốc ngày càng dữ dội
Khoảng 2,4 tỷ người - khoảng một nửa dân số châu Á - sống ở những khu vực dễ bị tổn thương do những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt.
Năm nay, lũ lụt và lở đất từ những cơn mưa gió mùa xối xả quét qua Ấn Độ, Nepal, Pakistan và Bangladesh, đã để lại sự tàn phá nặng nề và hàng trăm người chết ở mỗi quốc gia.
Năm 2019, Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Ấn Độ, Bangladesh, Hàn Quốc, Thái Lan, Sri Lanka và Philippines, đều bị bão nhiệt đới và bão - hoặc lốc xoáy, khiến hàng chục người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người phải di dời khỏi nơi ở và thiệt hại hàng triệu USD.
Cơn bão Dorian quét qua Bahamas để lại một vùng hoang tàn sau bão.
Cuộc khủng hoảng khí hậu sẽ tạo ra những cơn bão mạnh hơn, lượng mưa tăng cao và những trận gió mạnh hơn.
Philippines là đảo quốc trung bình mỗi năm trải qua 20 cơn bão và các trận bão ngày càng trở nên thường xuyên và dữ dội hơn.
Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới, bảy trong số 10 thảm họa gây thiệt hại kinh tế lớn nhất thế giới từ năm 1970 đến 2019 là lốc xoáy nhiệt đới.
Thiệt hại kinh tế cao do các trận bão gây ra có thể làm tê liệt các nước nghèo.
Năm 2015, bão số 5 đã khiến đảo quốc Vanuatu thiệt hại tương đương 64% tổng sản phẩm quốc nội.
Tất cả các thành phố dễ bị tổn thương trước các cơn bão đều chịu áp lực phải cải thiện cơ sở hạ tầng và lập kế hoạch phát triển hợp lý trong tương lai. Việc đầu tư vào hệ thống cảnh báo sớm đã cứu được vô số sinh mạng.
Tình trạng thiếu nước trở nên tồi tệ hơn
Mưa và gió mùa hằng năm là yếu tố rất quan trọng đối với nông nghiệp của khu vực. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng khí hậu đang khiến yếu tố này thất thường hơn, tình trạng hạn hán và thiếu nước trở nên nghiêm trọng hơn.
Năm năm qua là những năm nóng kỷ lục và gia tăng các cơn sóng nhiệt. Thời tiết cực đoan này được cảm nhận rõ trong năm nay ở các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Australia và đang trở nên dữ dội đến mức một nhóm các nhà nghiên cứu ở Viện khoa học công nghệ Masachusset (MIT) cho rằng một số nơi có thể trở nên quá nóng để con người sinh sống.
Những người phụ nữ lấy nước ở một hồ nước khô hạn ở Chennai hồi tháng 6-2019.
Năm nay, thành phố lớn thứ sáu của Ấn Độ, TP Chennai gần như cạn nguồn nước. Bốn hồ chứa cung cấp cho thành phố gần 5 triệu dân gần như cạn kiệt. Mọi người xếp hàng để chờ đợi đổ đầy can nước ở nước khắp thành phố và các bệnh viện không có nước để vận hành hoặc khử trùng thiết bị.
Trên khắp đất nước Ấn Độ, 600 triệu người đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước cấp bách - và cuộc khủng hoảng dự kiến sẽ trở nên tồi tệ hơn khi các sông băng ở dãy Himalaya tan chảy và các giếng khoan của Ấn Độ có nguy cơ cạn kiệt.
Jyoti Sharma, người sáng lập và là Chủ tịch của FORCE, một tổ chức phi chính phủ Ấn Độ cho biết: “Chúng ta có một nền kinh tế nơi có dân số ngày càng gia tăng và công nghiệp đang phát triển. Vì vậy, cần có thêm 40% nước cho ngành công nghiệp, cần nhiều nước hơn cho nhiều người hơn.”
Một báo cáo mới trong tháng này nhận định, một phần tư dân số thế giới đang sống ở những khu vực có tài nguyên nước không đủ cho nhu cầu của người dân - với các cuộc khủng hoảng nước “không thể tưởng tượng được” trở nên phổ biến.
Chủ tịch và CEO của Viện Tài nguyên Thế giới Andrew Steer nhấn mạnh, “Stress nước là cuộc khủng hoảng lớn nhất mà không ai nói đến. Hậu quả của nó là rõ ràng ở dạng mất an ninh lương thực, xung đột và di cư, và bất ổn tài chính”.
Mười năm tới
Thế giới hiện đã ấm hơn 1,1 độ C so với thời điểm bắt đầu thời kỳ Cách mạng Công nghiệp và theo các kịch bản hiện tại, lượng khí thải carbon dioxide sẽ cần phải giảm 7,6% mỗi năm trong thập kỷ tới.
Tuy nhiên, lượng khí thải vẫn không ngừng gia tăng.
Những cánh rừng bị thiêu đốt trơ trụi trong đám các đám cháy dữ dội ở Australia.
Những người bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khí hậu ở châu Á không có thêm một thập kỷ nữa để phần còn lại của thế giới thực hiện hành động thay đổi. Ở “Thái Bình Dương, người dân đã thức dậy với thực tế này trong nhiều năm nay và bây giờ, các quốc gia cần phải bắt kịp và tiến lên” và đầu hàng không phải là một lựa chọn, bà Cooper-Halo nói.
Hồi đầu tháng, Hội nghị về Biến đổi Khí hậu của LHQ đã nhấn mạnh sự mất kết nối lớn giữa các quốc gia gây ô nhiễm lớn nhất thế giới và cộng đồng toàn cầu đang đòi hỏi sự thay đổi.
Chuẩn bị ứng phó với hiện tượng thời tiết khắc nghiệt hơn sẽ gây chi phí tốn kém. Hiện đã có nhiều lời kêu gọi các quốc gia giàu có cung cấp tài chính và công nghệ cho các nền kinh tế nhỏ hơn để phục hồi sau các tác động của khủng hoảng khí hậu.
Joanna Sustento, người đã mất cả gia đình trong cơn bão Haiyan hồi năm 2013 đã trở thành một nhà hoạt động chống biến đổi khí hậu tại Phillipines, nói rằng, các công ty nhiên liệu hóa thạch cần thực hiện trách nhiệm của họ bằng cách tăng tốc độ chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.
“Chúng ta không nên cho phép ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch tiếp tục kinh doanh như bình thường, trong khi chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc sống với “sự bình thường mới” là đếm số người chết, tìm kiếm người mất tích và lo sợ cho tương lai của chúng ta”, cô Sustento nhấn mạnh.