Kiềm chế lạm phát đạt được kết quả bước đầu quan trọng

13:32, 15/10/2008

 Những kết quả bước đầu trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và những nhiệm vụ quan trọng năm 2009 đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh khi báo cáo tại phiên khai mạc kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XII sáng 16/10. Thủ tướng nói:

Chính phủ đã triển khai khẩn trương và đồng bộ 8 nhóm giải pháp; trong đó, tập trung chỉ đạo kiên quyết việc thắt chặt tiền tệ và tài khoá; đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, hạn chế nhập siêu; tăng cường quản lý giá cả, ngăn chặn đầu cơ, bình ổn thị trường.

 

Điều hành thận trọng, linh hoạt các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín phiếu bắt buộc; điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát chặt việc cho vay kinh doanh bất động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng, tập trung vốn cho sản xuất và xuất khẩu, bảo đảm tính thanh khoản của các ngân hàng và cả nền kinh tế; hạn chế tăng tổng phương tiện thanh toán cả năm xuống còn khoảng 18% và tổng dư nợ tín dụng khoảng dưới 30% ; tăng cường quản lý các ngân hàng thương mại, trợ giúp các ngân hàng yếu kém vượt qua khó khăn; ban hành các quy định thích hợp để nâng cao hiệu quả, tính an toàn và cũng là tiêu chí để cấp phép lập ngân hàng mới. Các ngân hàng thương mại nhà nước đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ. Lãi suất ngân hàng ổn định hơn, đã và đang giảm dần cùng với việc giảm của tốc độ tăng giá. "Trước tình hình tỷ giá biến động rất phức tạp gây tâm lý bất ổn trong xã hội, Chính phủ đã khẳng định không phá giá đồng tiền Việt Nam, công khai dự trữ ngoại hối, áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ phù hợp, can thiệp hợp lý, đủ mạnh vào quan hệ cung cầu, đồng thời kiểm soát chặt kinh doanh ngoại tệ và giảm mạnh nhập siêu. Tỷ giá giữa VNĐ với USD và các ngoại tệ khác đã ổn định trở lại".

 

Mặc dù giá cả tăng cao nhưng không điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư tương ứng; đã đình hoãn, giãn tiến độ trên 3.100 công trình dự án với khoảng 37.000 tỷ đồng vốn từ nguồn ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước ; cắt giảm khoảng 9.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ. Tiết kiệm 2.700 tỷ đồng chi thường xuyên của các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách.

 

Thu ngân sách năm 2008 vượt dự toán , góp phần giải quyết tốt các nhiệm vụ chi trong kế hoạch, tăng trợ cấp an sinh xã hội, tạo nguồn bù lỗ giá xăng dầu và giảm bội chi ngân sách .

 

Tăng cường chỉ đạo công tác quản lý thị trường giá cả, chống đầu cơ, buôn lậu; điều chỉnh thích hợp giá xăng dầu và từ tháng 9, đã kiên quyết thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bù lỗ đối với mặt hàng này.

 

Cán cân thanh toán quốc tế được bảo đảm; ước cả năm 2008 thặng dư khoảng 2,7 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối được tăng thêm, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô. Từ tháng 6 năm 2008, mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần , tháng 9 tăng 0,18%, tính chung 9 tháng giá tiêu dùng tăng 21,87%, dự báo cả năm 2008 tăng khoảng 24%"...

 

GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD .

 

Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 6,5 - 7% ; trong đó, nông nghiệp tăng 3,5 - 3,9%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,3 - 7,5%, dịch vụ tăng 7,2 - 7,8%; GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD .

 

Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá đầu vào tăng cao nhưng nông nghiệp vẫn đạt được những kết quả nổi trội: giá trị sản xuất ước tăng 5,1% (năm 2007 tăng 4,6%); sản lượng lúa tăng khoảng 2,6 triệu tấn, là mức tăng cao nhất từ trước đến nay , thuỷ sản tăng gần 9,0%.

 

Giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 16,2% (năm 2007 tăng 17,1%). Nhiều ngành dịch vụ phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng 31% (năm 2007 tăng 22,7%).

 

Tổng ngân sách nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho người thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội năm 2008 khoảng 19.800 tỷ đồng, tăng khoảng 14.700 tỷ đồng so với thực hiện năm 2007.

 

Ngoài ra, tính đến hết tháng 9 năm 2008 đã cấp không thu tiền trên 40.000 tấn gạo cho đồng bào vùng bị thiên tai, thiếu đói; miễn giảm thuỷ lợi phí và một số loại phí, lệ phí khác, bãi bỏ và giảm một số khoản huy động từ nhân dân khoảng 1.200 tỷ đồng.

 

Hỗ trợ thông qua 12 chương trình tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc, gia đình chính sách và một số đối tượng khó khăn khác để đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, làm nhà ở, định canh, định cư, nước sạch và vệ sinh môi trường, sinh viên học sinh nghèo đi học... Tổng số vốn cho vay ưu đãi trong 9 tháng là trên 20.000 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm khoảng 28.000 tỷ đồng, tăng 36% (khoảng 7.000 tỷ đồng).

 

Trong năm 2008 ngân sách nhà nước cũng đã chi khoảng 28.900 tỷ đồng để điều chỉnh tăng lương tối thiểu và điều chỉnh tăng lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, người lương thấp."

 

2009: đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 15%

 

Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế, xã hội của năm 2009 cần được xác định là: tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chăm lo tốt hơn an sinh xã hội; duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010".

 

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu tổng quát trên đây, phải tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

 

Một là, thực hiện có hiệu quả các chính sách về tiền tệ, tài khoá, đầu tư, xuất nhập khẩu, tăng cường mức độ an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng; đưa lạm phát năm 2009 xuống dưới 15% và xuống một con số vào năm 2010.

 

Hai là, thực hiện tốt các chính sách hiện có và ban hành các chính sách mới phù hợp nhằm bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo. Tiếp tục phát triển vững chắc các lĩnh vực văn hoá, xã hội và môi trường.

 

"Phải thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật kỷ cương và làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, đưa chủ trương của Đảng, Nhà nước đến mọi người dân; đồng thời nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đóng góp xác đáng để hoàn thiện chính sách, giải pháp. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định và cũng là bài học lớn về thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đạt được những kết quả bước đầu quan trọng nêu trên".

 

Ba là, phát huy mọi tiềm năng của đất nước, tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%, trên cơ sở tạo mọi điều kiện thuận lợi phát triển nhanh khu vực dân doanh, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, thu hút mạnh và nâng cao chất lượng của đầu tư nước ngoài.

 

Bốn là, đặc biệt coi trọng tính bền vững và chất lượng tăng trưởng trên cơ sở nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch và hiệu quả đầu tư, áp dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trong sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế.

 

Năm là, tập trung cao hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X.

 

Sáu là, tập trung khắc phục những "điểm nghẽn" trong tăng trưởng, tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất, thu hút đầu tư; trong đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là sức cạnh tranh cơ bản nhất, là yêu cầu bất biến trong thế giới toàn cầu hoá và biến đổi không ngừng.

 

Ưu tiên số một  kiềm chế lạm phát

 

Để kiềm chế mức tăng giá tiêu dùng cả năm 2009 dưới 15%, đưa lạm phát xuống một con số vào năm 2010 và ổn định vững chắc hơn kinh tế vĩ mô phải tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, nhưng rất linh hoạt trong điều hành nhằm bảo đảm vốn cho việc tăng trưởng hợp lý và ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. "Lạm phát cao ở nước ta có nguyên nhân khách quan từ bên ngoài, nhưng chủ yếu vẫn là những nguyên nhân chủ quan bên trong; có nhiều điểm giống nhưng cũng có những khác biệt với các nước. Để chống lạm phát, cần tham khảo kinh nghiệm của thế giới, chân thành lắng nghe những ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhưng phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước để xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, không thể rập khuôn, máy móc.

  

Điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường; áp dụng tỷ giá linh hoạt bảo đảm yêu cầu kiềm chế lạm phát, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Tăng cường hiệu quả điều tiết vĩ mô và thanh tra, giám sát các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống.

 

Kiểm soát có hiệu quả việc cho vay kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán và các luồng tiền trong nền kinh tế. Thực thi chính sách tài khóa chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, thực hiện tốt mục tiêu giảm tỷ lệ bội chi; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; đình hoãn, giãn tiến độ các dự án đầu tư chưa thực sự cần thiết, không hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.

 

Kiên trì chính sách giá theo cơ chế thị trường, điều chỉnh giá điện, than với lộ trình phù hợp cùng với việc hỗ trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng tiêu cực do tăng giá. Phát huy tối đa năng lực sản xuất hiện có, điều hành xuất nhập khẩu và tổ chức tốt thị trường trong nước, bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu, không để xảy ra thiếu hàng.

 

Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng; thực hiện nghiêm các quy định về niêm yết giá và bán theo giá niêm yết; xử lý kịp thời c¸c hµnh vi vi phạm; bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Đề cao trách nhiệm của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong việc bảo đảm cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng và tham gia tích cực vào việc bình ổn thị trường giá cả".

 

Đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh

 

Sẽ đẩy mạnh sản xuất nông lâm ngư và diêm nghiệp theo quy hoạch. Bảo đảm diện tích lúa với cơ cấu giống thích hợp để giữ vững an ninh lương thực và nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Phát triển một số loại cây công nghiệp, cây trồng khác có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

 

Đẩy mạnh việc trồng mới và bảo vệ rừng, gắn với cơ chế, chính sách thích hợp để xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người làm nghề rừng. Khôi phục và phát triển nhanh chăn nuôi đi đôi với làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh. Khai thác hợp lý hải sản, đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, tập trung vào những loại có hiệu quả kinh tế cao. Phát triển một số nông sản, thuỷ sản có điều kiện để làm thức ăn chăn nuôi, giảm dần nhập khẩu. Tập trung chỉ đạo gắn kết có hiệu quả hơn giữa sản xuất nông nghiệp với thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

 

Tăng năng lực các ngành sản xuất công nghiệp, nhất là các sản phẩm mà thị trường đang có nhu cầu; phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến nhất là công nghiệp cơ khí và chế biến khoáng sản. Thu hút mạnh đầu tư vào các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thân thiện với môi trường; phát triển nhanh một số ngành công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh tranh.

 

Phát triển các ngành dịch vụ để tăng nhanh tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế, gắn phát triển dịch vụ vận tải với dịch vụ logistic nhằm giảm chi phí lưu thông hàng hoá; phát triển các dịch vụ tư vấn, viễn thông, dịch vụ tài chính; phát triển nhanh hệ thống dịch vụ thương mại; tăng khả năng liên kết vùng, liên kết ngành để nâng cao hiệu quả tổng hợp của dịch vụ du lịch.

 

Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước cần tích cực đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý, triệt để tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nhằm hạ giá thành, phí lưu thông, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Ban hành chính sách thích hợp để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu này. Các Bộ và địa phương phải tăng cường kiểm tra, huỷ bỏ các loại phí trái quy định, đặc biệt là trong các lĩnh vực tiếp cận đất đai, hải quan, nộp thuế, cấp giấy phép đầu tư, chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, các loại phí trên đường vận chuyển... giảm chi phí trung gian cho doanh nghiệp.

 

Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Thực hiện cổ phần hoá các tập đoàn và tổng công ty nhà nước theo kế hoạch; tiếp tục bán số cổ phần nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hoá mà nhà nước không cần chi phối. Phát huy vai trò của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước trong việc quản lý và phát triển vốn nhà nước, phục vụ cho nhu cầu phát triển. Phân định rõ trách nhiệm của Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương với Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.

 

Thực hiện các giải pháp để bảo đảm điện cho sản xuất và đời sống. Trong năm 2009, tăng công suất phát điện thêm khoảng 3.400 MW đi đôi với triệt để tiết kiệm trong sử dụng, phấn đấu giảm lượng điện tiêu thụ trong quan hệ với tăng GDP. Ban hành cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển nguồn điện; mở rộng việc sử dụng năng lượng tái sinh, năng lượng sinh học; giảm tối đa và phấn đấu chấm dứt tình trạng cắt điện; xây dựng thị trường điện cạnh tranh, tách sản xuất điện với phân phối điện.

 

Bảo đảm đủ vốn cho sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, hàng xuất khẩu và vốn để đẩy nhanh thi công, sớm đưa vào sử dụng các dự án, các công trình quan trọng nhằm tăng năng lực sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ban hành danh mục kêu gọi đầu tư cùng với các chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư các công trình hạ tầng. Có chính sách hỗ trợ phù hợp để phát huy hiệu quả của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

 

Tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chú trọng thu hút các dự án công nghệ cao, sử dụng đất có hiệu quả và thân thiện với môi trường; đẩy nhanh việc giải phóng mặt bằng, giải quyết các vướng mắc để tăng tỷ lệ giải ngân. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài".

 

Để đạt kế hoạch kim ngạch xuất khẩu (khoảng 76,7 tỷ USD) phải cơ cấu lại mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng xuất khẩu các mặt hàng chế tạo chế biến, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu; phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới; giảm xuất khẩu nguyên liệu thô. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ở cả 3 cấp: doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và Chính phủ nhằm mở thêm thị trường mới. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức xúc tiến thương mại, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ trợ, phối hợp với doanh nghiệp trong xuất khẩu.

 

Tiếp tục thực hiện các giải pháp kiểm soát nhập khẩu không trái với quy định của WTO để hạn chế nhập khẩu các mặt hàng chưa thật sự cần thiết; giữ mức nhập siêu khoảng 20,7 tỷ USD, bằng 27,0% kim ngạch xuất khẩu. Áp dụng các biện pháp đồng bộ để chống nhập lậu, gian lận thương mại".