Kích cầu nếu lạm dụng sẽ nảy sinh tiêu cực

13:47, 09/04/2009

Dù nhìn nhận gói kích thích lần hai hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn là phù hợp trong bối cảnh hiện tại, song giới chuyên gia cho rằng, chỉ nên coi đây là giải pháp tạm thời, nếu lạm dụng sẽ phát sinh tiêu cực, tạo cơ chế xin cho và tâm lý ỷ lại trong doanh nghiệp.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong - Trưởng phòng nghiên cứu kinh tế xã hội - Viện nghiên cứu kinh tế - xã hội Hà Nội nhìn nhận, xét về mặt toàn diện thì việc đưa ra gói kích cầu bổ sung đảm bảo duy trì sự ổn định và mục tiêu tập trung của Chính phủ trong các giải pháp kích cầu. Các khoản hỗ trợ lãi suất đầu tư trung và dài hạn này sẽ giúp cho doanh nghiệp tự tin và an toàn hơn trong việc đầu tư vay vốn, cải cách cơ cấu sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh...

 

Dù vậy, ông Phong cũng cho rằng, gói hỗ trợ không mang tính dài hạn, về lâu dài dễ gây ra lạm dụng, sử dụng không hiệu quả. Nhà nước phải có cơ chế rõ ràng để chống hiện tượng lạm dụng như ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau tạo ra khoản vay ảo với lãi suất hỗ trợ sau đó là chia chác kiếm lời, hay hiện tượng doanh nghiệp lạm dụng vay nhưng lại không đầu tư theo cam kết mà dùng để trả nợ, đáo hạn rồi gửi lại ngân hàng ăn lãi...

 

Theo ông Phong, không nên quá nhấn mạnh vào chuyện hỗ trợ lãi suất mà cần bổ sung thêm một số công cụ hỗ trợ khác, như bảo lãnh tín dụng liên quan đến quỹ đầu tư mạo hiểm, cho vay thu mua tài chính hay các công cụ tuyên truyền sao cho có hiệu quả hơn.

 

Đồng tình với quan điểm này, ông Bùi Kiến Thành, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Quản lý tài sản quốc tế nói: "Gói kích cầu thứ hai chọn chính sách tiền tệ với lãi suất hỗ trợ, tức là Nhà nước dốc ngân sách ra để trả cho ngân hàng 4% lãi suất để doanh nghiệp được hưởng chính sách ưu đãi. Đây là một cách làm theo tôi không mang tính lâu dài, gây lãng phí tiền của ngân sách Nhà nước. Lẽ ra hàng chục tỷ đồng ngân sách này phải được sử dụng vào nhiều việc khác".

 

Theo ông, Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có thể "cào bằng" một mức lãi suất thấp có thể 5%, 6% hay 7% thay vì mức 10,5% hiện hành mà không cần dùng đến gói kích cầu cả chục tỷ đồng ngân sách. Còn nếu một thị trường mà có tới 2 loại lãi suất ưu đãi (4%) và không ưu đãi (10,5%) thì sẽ tạo ra một sân chơi không bình đẳng, doanh nghiệp rất khó cạnh tranh lành mạnh.

 

Ông Thành cho rằng, việc liên tiếp đưa ra gói kích cầu đã xuất hiện một tâm lý ỷ lại và kéo tụt nền kinh tế của VN quay trở lại thời kỳ bao cấp và bảo hộ. Tức là nhảy từ thời kỳ tiến bộ về thời kỳ bao cấp, quan liêu dễ dẫn đến cơ chế xin cho. Chưa kể, việc hỗ trợ lãi suất như vậy sẽ đẩy nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đứng trước nguy cơ có thể bị kiến phá giá khi hàng được xuất sang các nước khác. Doanh nghiệp được sử dụng khoản vốn này dù là đầu tư hạ tầng, máy móc thiết bị hay sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu cũng đều được coi là bằng chứng để các đối tác nước ngoài kiện lại.

 

"Theo tôi, gói hỗ trợ của Chính phủ chỉ nên coi là giải pháp nhất thời chứ không nên lạm dụng. Ngân sách không phải là vô tận để có thể tiếp tục chi tới 4% lãi suất... ngân sách còn phải được sử dụng vào rất nhiều việc khác nữa", ông Thành nhấn mạnh.

 

Tiến sĩ Phạm Minh Trí, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật và Quản lý Kinh tế TP HCM cũng cho rằng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp VN giờ đây là cạnh tranh tồn vong, một mất một còn trong cơn bão táp ác liệt, chứ không như trong điều kiện phát triển bình thường trước đây. Trong bối cảnh này, kinh tế VN không thể chống suy giảm thành công nếu chỉ bằng những gói giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng đang được triển khai và bằng lòng với những giải pháp đó mà không quan tâm đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

 

Ông Trí cho rằng những nhược điểm của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh yếu kém của VN vẫn còn nguyên và chưa được khắc phục. Do vậy, cần có những nhóm giải pháp tổng thể cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ngay từ trong giai đoạn hiện nay. Trong đó việc nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý, điều hành, hoạch định chính sách ở cấp vĩ mô, qua đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và sức cạnh tranh quốc gia của VN phải được cải tiến...

 

Một chuyên gia cao cấp khác thì nhấn mạnh sự minh bạch của gói kích cầu là vấn đề hết sức quan trọng, vì tất cả các gói kích cầu trên thế giới hiện nay đều có vai trò giám sát của Quốc hội. Đối với hoạt động tín dụng, giám sát bao giờ cũng là công việc khó khăn vì luôn bất đối xứng về thông tin, người vay thường “vẽ” ra các dự án rất đẹp, người cho vay không có nhiều cơ sở để biết người ta vay tiền cho mình để làm gì, hiệu quả ra sao. Kiểm soát hiệu quả sử dụng vốn vay lưu động sẽ dễ dàng hơn so với cho vay dự án. Do đó, việc giám sát cho vay đối với gói kích cầu thứ hai cần phải hết sức lưu ý.

 

Gói kích thích kinh tế lần hai được Chính phủ công bố hôm 6/4 nhằm cung cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp, song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 1/4/ 2009 đến hết ngày 31/12/2011.

 

Trước đó ngày 23/1, Chính phủ công bố gói kích thích kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Vốn vay này nhằm giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh, và tạo công ăn việc làm trong điều kiện nền kinh tế bị tác động bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới