Trong không gian văn hoá Á Đông, sự phát triển của văn hoá trà là một thực tế sinh động của nghệ thuật sống, nghệ thuật cảm nhận ngày càng thăng hoa và bay bổng. Ở Việt Nam, trà hiện diện trong văn học dân gian thông qua ca dao, hò vè, câu đối, tục ngữ truyền khẩu và văn chương với những bài thơ kiệt tác của các nhà văn lừng danh xưa và nay. Xin giới thiệu đến bạn đọc một số danh nhân văn hóa trà Việt Nam qua các thời kỳ.
1- Chu Văn An (tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt) là một đại quan nhà Trần, Việt Nam, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì - Hà Nội).
Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Công bên bên kia sông Tô, ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) vời ông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đến đời Dụ Tông, ông thấy quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở Văn Miếu - Quốc Từ Giám. Sau khi mất được vua Nghệ Tông ban tước Văn Trinh Công sau đó thường được gọi là Chu Văn Trinh, thọ 79 tuổi.
2- Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc, một nhà hoạt động chính trị xuất sắc, một đại văn hào, một danh nhân văn hoá thế giới. Coi trà như một giá trị thư giãn và thẩm mỹ, một công cụ giao tiếp ứng xử xã hội, làm phong phú thêm đời sống tâm hồn con người trần tục, Nguyễn Trãi đã trút hết phiền muộn trong bài thơ “Loạn hậu đáo Côn Sơn”;
3- Lê Thánh Tông, nhà vua quyết đoán, giàu nghị lực, nhiều tài năng chính trị, tư tưởng quân sự và thi văn. Trong bài thơ “Lại vịnh cảnh mùa hè” đã mô tả cảnh ngâm thơ uống trà với bạn tri kỷ;
4-Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tư tưởng lớn ảnh hưởng đến văn phong học phong một thế kỷ. Phong cách uống trà và rượu mời khách, tại quán bên bờ am Bạch Vân nơi bụi xe không bám đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả “Pha trà, chim lánh khói, Ngâm thơ thừa tiêu dao”;
5- Lê Quý Đôn, nhà bác học uyên thâm với quan điểm lý khí, biện chứng, đầy bản sắc văn hoá dân tộc viết về cây chè Thanh Hoá trong “Vân đài loại ngữ”;
6- Nguyễn Du nhà văn hoá dân tộc và thế giới mô tả thú vui uống trà là đầu câu chuyện, chất kết dính người với người sát lại bên nhau, chất điều chỉnh hành vi xã hội của con người trong “Truyện Kiều”;
7- Phạm Đình Hổ, nhà văn cảm nhận về thú vui uống trà, cùng với ông bạn Tô nho sinh hoà mình với thiên nhiên, bên bờ sông bóng cây so le, mảnh trăng in trên mặt nước trong veo, gửi tâm tình vào cây cỏ, ngâm vịnh trong “Vũ trung tuỳ bút”;
8- Nguyễn Công Trứ, con người thiết tha yêu nước, yêu dân, giúp triều đình dẹp loạn, khai khẩn dinh điền, có cá tính mạnh mẽ, sống phóng khoáng, độc đáo, một phong cách tài tử, nhà nho tài ba, có chí lớn nhưng không gặp thời tả về thú vui uống trà trong “Câu đối dán chơi”;
9- Cao Bá Quát với sức sáng tạo dồi dào, phong phú, sống sôi nổi, mạnh mẽ, tài hoa kiệt xuất, với cái nhìn sắc sảo, tiến bộ, một nhân cách cao thượng, trong sáng, một tình thương dành cho người cùng khổ, một tình cảm rộng lớn mang ý nghĩa nhân đạo, có bài thơ uống trà “Vị minh kệ đồng Phan Sinh tọa”;
10- Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nhà thơ trào phúng và châm biếm quan lại đương thời, day dứt và cay đắng than thở cho sự bất lực của bản thân một thày đồ bất mãn với thời cuộc, mượn chén trà để quên thế sự trần tục đảo điên khôn lường trong bài thơ “Anh giả điếc uống chè”.
11- Nguyễn Tuân, nhà văn sành điệu về thưởng thức trà tàu, một thú vui thư giãn và thanh lịch của con ngươi kẻ sỹ Thăng Long, rơi vào cảnh túng bấn, lãng tử, mà vẫn còn thói hào hoa phong nhã uống trà tàu. Tâm sự của một thời dĩ vãng đã qua đi mãi mãi, tìm về thời vàng son của quá khứ đã được mô tả trong “Vang bóng một thời”;
12- Xuân Diệu, nhà thi sỹ của tuổi xuân, của tình yêu và ánh sáng, với nguồn sống dạt dào, mà tiếng thơ là tiếng reo vui năn nỉ, sự chân thành cảm xúc, những tình ý rạo rực biến lẫn trong thanh âm. Tình yêu, con người và cuộc sống của Xuân Diệu thể hiện trong Chè Suối Giàng và Chén nước;
13- Cù Huy Cận, nhà thơ gắn bó với thiên nhiên xứ Nghệ vừa trữ tình, vừa khắc nghiệt, có những con người cần cù hay chữ, với cuộc sống lãng mạn và khôn khó. Nhà thơ gắn bó với làng xóm, đình chùa, bến nước, cây đa ca ngợi người cha dạy sớm tinh mơ đi cày trâu, hút thuốc lào trong “Uống nước chè xanh xứ Nghệ càng chát lại càng ngon” của quê hương;
14- Tố Hữu, nhà thơ của cách mạng Tháng Tám 1945, lớn lên và kết tinh với cách mạng. Nhà thơ mắt ngắm “Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt” của Việt Bắc, tai nghe tiếng hát trên sông, cúi nhìn con đường rộng thênh thang tám thước mới mở. Rồi tiếp đó là ngẩng đầu lên trời xanh lồng lộng, trong mạch thơ cuồn cuộn và ào ạt như thác chẩy “Ta đi tới !” sau chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu của nhân dân Việt Nam;