Gốm sứ và trà cụ Việt Nam

18:39, 06/11/2011

Bộ đồ trà là một bộ phận hữu cơ không thể vắng mặt trong một buổi uống trà, đó là một niềm kiêu hãnh, một thú vui sành điệu, quý phái của chủ nhà. Vừa thưởng thức hương vị quyến rũ của trà, lại vừa ngắm nghía nét đẹp tinh tế của bộ ấm chén gốm sứ pha trà. Mỗi dân tộc có những kiểu trà cụ độc đáo khác nhau như bộ đồ trà gốm của Trung Hoa, Việt Nam; Samovar ở Nga và bộ đồ trà bạc ở Anh.

Tại Việt Nam thời kỳ phong kiến dân lao động tại nông thôn thành thị uống chè tươi bằng bát đàn của lò gốm thủ công Việt Nam.

 

 Đồ gốm Việt Nam là tên gọi chung của 5 loại chất liệu: đất nung, sành nâu, sành xốp, sành trắng và sứ. Đất sét là nguyên liệu chính để làm gốm, là đối tượng nghiên cứu của ngành silicat hiện đại. Còn lửa - nhiệt độ trong lò nung - là vấn đề kỹ thuật quyết định một sản phẩm ra lò tròn hay méo vàng hay trắng, men màu hiện ra khác nhau tuy cùng một công thức.

 

Có 4 loại gốm: Gia dụng, nghệ thuật, kiến trúc và kỹ thuật. Vẻ đẹp của gốm là sự kết hợp của nghệ thuật điêu khắc và hội hoạ. Đồ gốm bản địa Việt Nam chịu ảnh huởng tiếp biến của gốm Trung Hoa và phương Tây trong quá trình lịch sử phát triển của đất nước.

 

- Sự phát triển của nghề gốm sứ Việt Nam đã trải qua những mốc tiến bộ kỹ thuật và nghệ thuật ngày càng cao sau đây:

 

Gốm tiền sử: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, Sa Huỳnh.

 

Gốm thế kỷ I - IX: Giao lưu với phương Bắc, ấn Độ và quốc đảo Đông Nam, trên cơ sở gốm đất nung Đông Sơn, còn có chất liệu sành xốp từ đất sét trắng, sành nâu và gốm kiến trúc ở nhiều tỉnh miền Bắc, với 2 trung tâm Thuận Thành - Bắc Ninh (gốm nâu) và Tam Thọ - Thanh Hoá (đất trắng), sản xuất gốm gia dụng ăn uống, chứa đựng.

 

Gốm thế kỷ X - XIV, đời Nhà Trần có gốm sành sứ tráng men, gốm hoa nâu, gốm hoa trắng, gốm men ngọc, men nâu, men trắng ngà làm thạp, liễn, bát đĩa ấm chén nổi tiếng. Hai trung tâm gốm sứ lớn là Bát Tràng (Hà Nội) và Chu Đậu (Hải Dưuương).

 

 

Gốm thế kỷ XV - XIX, đời Nhà Lê, ngoài sành xốp, sành trắng hoa lam, men nâu, tam sắc, men rạn của Bát Tràng (Hà Nội), Chu Đậu (Hải Dương), còn có sành nâu không men Hương Canh (Vĩnh Yên), sành nâu men da lươn Phù Lãng (Bắc Giang); miền Trung có Lò chum (Thanh Hoá); xuất khẩu sang Nhật Bản, Nam á và Tây á theo “Con đường gốm” (thế kỷ XIV - XVI)

 

Gốm thế kỷ XX, có thêm Lò gốm Mông Cái, Cây Mai (Sài Gòn - Chợ Lớn), Lái Thiêu (Bình Dương), Biên Hoà (Đồng Nai), làm đồ dân dụng bát đĩa, ấm chén, lu, khạp nổi tiếng, gốm nghệ thuật Biên Hoà với hoa văn chi tiết, màu sắc tươi tắn rực rỡ. Sau 1954, khôi phục các lò gốm thủ công truyền thống, đầu tư xây dựng Nhà máy Sứ Hải Dương và Nhà máy sứ Lào Cai hiện đại.

 

Gốm sứ Bát Tràng

 

Là tên gọi chung cho các loại đồ gốm được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Trước đây hơn 700 năm, người dân thôn Bát Tràng di cư từ làng Bồ Bát (xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa, theo vua Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, đến vùng đất bồi trên bờ sông Hồng, lập phường làm nghề gốm). Lúc đầu thôn Bát Tràng được gọi là Bạch Thổ Phường, từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Từ năm 1964, xã Bát Tràng được thành lập gồm 2 thôn Bát Tràng và Giang Cao như hiện nay.

 

Quy trình sản xuất đồ gốm Bát Tràng

 

Để làm ra đồ gốm người thợ gốm phải qua các khâu chọn, xử lí và pha chế đất, tạo dáng, tạo hoa văn, phủ men, và cuối cùng là nung sản phẩm. Kinh nghiệm truyền đời của dân làng gốm Bát Tràng là "Nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò".

 

Chọn đất: Điều quan trọng đầu tiên để hình thành nên các lò gốm là nguồn đất sét làm gốm. Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ thường là sản xuất trên cơ sở khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng gốm Bát Tràng cũng vậy, sở dĩ dân làng Bồ Bát chọn khu vực làng Bát Tràng hiện nay làm đất định cư phát triển nghề gốm vì trước hết họ đã phát hiện ra mỏ đất sét trắng ở đây.

 

 

Xử lí, pha chế đất:Trong đất nguyên liệu thường có lẫn tạp chất, ngoài ra tuỳ theo yêu cầu của từng loại gốm khác nhau mà có thể có những cách pha chế đất khác nhau để tạo ra sản phẩm phù hợp.

 

Tạo dáng: Phương pháp tạo dáng cổ truyền của người làng Bát Tràng là làm bằng tay trên bàn xoay. Trong khâu tạo dáng, người thợ gốm Bát Tràng sử dụng phổ biến lối "vuốt tay, be chạch" trên bàn xoay, trước đây công việc này thường vẫn do phụ nữ đảm nhiệm.

 

Phơi sấy và sửa hàng mộc: Tiến hành phơi sản phẩm mộc sao cho khô, không bị nứt nẻ, không làm thay đổi hình dáng của sản phẩm. Biện pháp tối ưu mà xưa nay người Bát Tràng vẫn thường sử dụng là hong khô hiện vật trên giá và để nơi thoáng mát. Ngày nay phần nhiều các gia đình sử dụng biện pháp sấy hiện vật trong lò sấy, tăng nhiệt độ từ từ để cho nước bốc hơi dần dần.

 

Quá trình trang trí hoa văn và phủ men: Thợ gốm Bát Tràng dùng bút lông vẽ trực tiếp trên nền mộc các hoa văn hoạ tiết. Thợ vẽ gốm phải có tay nghề cao, hoa văn học tiết phải hài hoà với dáng gốm, các trang trí hoạ tiết này đã nâng nghề gốm lên mức nghệ thuật, mỗi cái là một tác phẩm.

 

Chế tạo men: Men tro là men đặc sắc của gốm Bát Tràng, ngoài ra còn có men màu nâu, thành phần loại men này bao gồm men tro cộng thêm 5% đá thối (hỗn hợp ôxít sắt và ôxít mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc). Từ thế kỉ 15 thợ gốm Bát Tràng đã từng chế tạo ra loại men lam nổi tiếng. Loại men này được chế từ đá đỏ (có chứa ôxít côban) đá thối (chứa ôxít mangan) nghiền nhỏ rồi trộn với men áo. Men lam phát màu ở nhiệt độ 1250°C. Đầu thế kỉ 17 người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh chùa Hội (thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương) có màu hồng nhạt điều chế thành một loại men mới là men rạn.

 

Tráng men: Khi sản phẩm mộc đã hoàn chỉnh, người thợ gốm có thể nung sơ bộ sản phẩm ở nhiệt độ thấp rồi sau đó mới đem tráng men hoặc dùng ngay sản phẩm mộc hoàn chỉnh đó trực tiếp tráng men lên trên rồi mới nung. Kĩ thuật tráng men có nhiều hình thức như phun men, dội men nên bề mặt cốt gốm cỡ lớn, nhúng men đối với loại gốm nhỏ nhưng thông dụng nhất là hình thức láng men ngoài sản phẩm, gọi là "kìm men", và khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men là hình thức tráng men bên trong và bên ngoài sản phẩm cùng một lúc, còn đúc men thì chỉ tráng men trong lòng sản phẩm. Những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng, vừa là kĩ thuật vừa là nghệ thuật, được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết nghề nghiệp.

 

 

Sửa hàng men: Người thợ gốm tiến hành tu chỉnh lại sản phẩm lần cuối trước khi đưa vào lò nung. Trước hết phải xem kĩ từng sản phẩm một xem có chỗ nào khuyết men thì phải bôi quệt men vào các vị trí ấy. Sau đó họ tiến hành "cắt dò" tức cạo bỏ những chỗ dư thừa men, gọi là "sửa hàng men".

 

Quá trình nung: Khi công việc chuẩn bị hoàn tất thì đốt lò trở thành khâu quyết định sự thành công hay thất bại của một mẻ gốm. Vì thế giờ phút nhóm lò trở nên thiêng liêng trọng đại với người thợ gốm. Người thợ cả cao tuổi nhất thắp ba nén hương và thành kính cầu mong trời đất và thần lửa phù giúp. Việc làm chủ ngọn lửa theo nguyên tắc nâng dần nhiệt độ để lò đạt tới nhiệt độ cao nhất và khi gốm chín thì lại hạ nhiệt độ từ từ chính là bí quyết thành công của khâu đốt lò.