Dù phải cân nhắc những kịch bản về dịch bệnh, song Việt Nam cần xây dựng một kế hoạch dài hơi nhằm thúc đẩy phục hồi kinh tế sau khi COVID-19 kết thúc.
Sáng 22/4, tại Hà Nội, với sự hỗ trợ của Chương trình Ôxtrâylia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Thúc đẩy phục hồi kinh tế và cải cách thể chế sau đại dịch COVID-19: Đề xuất cho Việt Nam”.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM, đại dịch COVID-19 từ đầu năm 2020 đã có những tác động bất lợi, sâu rộng, cả trực tiếp và gián tiếp đối với kinh tế toàn cầu. Đến thời điểm tháng 3/2021, đại dịch vẫn có những diễn biến hết sức khó lường, cho dù nhiều nước đã bắt đầu quá trình phổ biến vắc xin. Dù vậy, các nước cũng cân nhắc nhiều giải pháp hơn, kể cả những gói kích cầu quy mô lớn chưa từng có tiền tệ, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, kích thích phục hồi kinh tế. Một số yêu cầu chính sách quan trọng từ kinh nghiệm ứng xử của nhiều nền kinh tế với đại dịch COVID-19 và phục hồi kinh tế bao gồm: bảo đảm hiệu quả phòng chống dịch COVID-19; sản xuất, tiếp cận và phổ biến vắc xin; đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số; cân nhắc thời điểm thực hiện các biện pháp kích cầu quy mô lớn và dư địa chính sách cần thiết và thực hiện cải cách thể chế để tăng hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế.
“Chúng tôi đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam trong 3 năm tới, giai đoạn 2021-2023 dựa trên 3 kịch bản. Nếu đạt được những đột phá trong chất lượng cải cách thể chế dẫn tới cải thiện chất lượng tăng trưởng song hành với các biện pháp nới lỏng tài khóa và tiền tệ đúng trọng tâm, đúng thời điểm, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình có thể đạt tới 6,76%/năm giai đoạn 2021-2023, đi kèm với cải thiện đáng kể về năng suất. Khi ấy, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững hơn, ngay cả khi kinh tế thế giới còn nhiều bất định. Đồng thời, chúng tôi sẽ làm rõ một số yêu cầu để bảo đảm các chính sách hướng tới phục hồi kinh tế có sự gắn bó mật thiết với cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam trong thời gian tới’ – Viện trưởng CIEM Nguyễn Thị Hồng Minh nhấn mạnh.
Ngay cả trước đại dịch COVID-19, kinh tế toàn cầu đã chứng kiến những dấu hiệu suy giảm, và đánh giá triển vọng tăng trưởng còn bất định, kể cả ở các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, đầu tư và thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng trong bối cảnh gia tăng căng thẳng giữa các nền kinh tế lớn, rủi ro địa chính trị, giá hàng hóa giảm, v.v. Hầu hết các nước đều nhìn nhận yêu cầu tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số, song không ít quốc gia còn chậm cụ thể hóa thành chính sách trong nước.
Đại dịch COVID-19 bùng phát đã làm trầm trọng thêm những rủi ro trên đối với kinh tế toàn cầu. Ở một mặt khác, đại dịch COVID-19 cũng buộc các nền kinh tế, dù phát triển hay đang phát triển, phải đẩy nhanh những cải cách thể chế, đặc biệt là gắn với tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số.
TS Nguyễn Anh Dương, nhóm nghiên cứu CIEM phát biểu tại Hội thảo. (Ảnh: HNV)
Trình bày báo cáo của CIEM, TS Nguyễn Anh Dương, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, mặc dù còn giữ sự thận trọng, tại thời điểm quý I/2021, triển vọng kinh tế thế giới được đánh giá lạc quan hơn so với tại thời điểm nửa đầu năm 2020. Việt Nam, trước đại dịch COVID-19, vẫn kiên định với các yêu cầu bứt phá và ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách sâu rộng kinh tế vi mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế. Tư duy ban hành chính sách đã có những chuyển biến theo hướng tôn trọng tinh thần tự do kinh doanh, chuyển từ “chọn cho” sang “chọn bỏ” và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Việt Nam cũng nhấn mạnh việc tìm kiếm các động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều chuyển biến, nổi bật với việc ký kết CPTPP, EVFTA và EVIPA trong năm 2019. Tuy vậy, cải cách và điều hành chính sách vẫn bộc lộ một số hạn chế như: cải cách nền tảng kinh tế vi mô mới chỉ tập trung vào gia nhập thị trường; động lực thực thi vẫn là một vấn đề cần cải thiện.
Cũng theo TS Dương, kể từ đầu năm 2020, Việt Nam cũng đối mặt với hai làn sóng bùng phát của đại dịch COVID-19. Với phản ứng quyết liệt và khá sớm, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát COVID-19. Công tác chỉ đạo và điều hành của Chính phủ đã thể hiện những bước chuyển phù hợp, linh hoạt, song kiên định với “mục tiêu kép”, vừa quyết liệt phòng chống dịch hiệu quả; vừa tập trung phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước. Các cải cách về môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp… tiếp tục có sự liền mạch với các năm trước. Các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế mới tiếp tục được nghiên cứu, cân nhắc, bên cạnh việc rà soát, điều chỉnh quy định liên quan đến tiếp cận một số gói hỗ trợ trước đó (về tín dụng, thuế, an sinh xã hội…).
Với việc tiếp tục kiểm soát tốt dịch bệnh trong những tháng đầu năm 2021, các hoạt động kinh tế-xã hội trong cả nước tiếp tục đà phục hồi. Hoạt động tiêm vắc xin đã dần được triển khai. Nhiều thảo luận xoay quanh mở lại các đường bay quốc tế, “Hộ chiếu vắc xin”... được đề cập gần đây nhằm hướng đến mở cửa trở lại nền kinh tế một cách an toàn, hay sự đồng bộ và bền vững của chính sách hỗ trợ phục hồi một số ngành, lĩnh vực quan trọng cũng như tổng thể nền kinh tế.
Dịch bệnh COVID-19 trên thế giới còn diễn biến phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực của dịch bệnh đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội còn tiếp tục kéo dài, chưa thể đánh giá hết. Đặt trong bối cảnh ấy, báo cáo đưa ra một số cân nhắc về quá trình phục hồi kinh tế và cải cách thể chế kinh tế trong thời gian tới, bao gồm cân nhắc về ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi kinh tế, về cải cách thể chế kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế, về vai trò của Nhà nước và không gian kinh tế cho khu vực kinh tế tư nhân; và thời điểm tiến hành cải cách cũng được nhìn nhận thấu đáo trong giai đoạn phục hồi tăng trưởng kinh tế sau đại dịch.
Có thể thấy, Hội thảo lần này đã nhấn mạnh lại thông điệp phục hồi kinh tế phải song hành với cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam. Những đề xuất định hướng và giải pháp liên quan đến phục hồi kinh tế; cải cách thể chế; độ mở cho hoạt động kinh tế mới; hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển bền vững cũng được cụ thể hóa, cùng với yêu cầu phải thực hiện hài hòa, thống nhất trong thời gian tới. Đa phần đại biểu tham dự Hội thảo đều thống nhất trong trao đổi về đề xuất lộ trình chính sách cho giai đoạn 2021-2023, cụ thể: tiếp tục phòng chống dịch COVID-19 hiệu quả, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và người lao động, kết hợp với cải cách thể chế kinh tế trong năm 2021; kết hợp giải pháp phục hồi kinh tế và cải cách thể chế kinh tế trong năm 2022; rút dần các giải pháp hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, tập trung vào cải cách thể chế kinh tế trong năm 2023./.