ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN ĐẠI HỘI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM CÁC CẤP, TIẾN TỚI ĐẠI HỘI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM LẦN THỨ VIII
-----------------
I. TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT.
1. Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc hàng ngàn năm qua. Kế thừa truyền thống quý báu đó, trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc thì phải có lực lượng và có thành phần làm nòng cốt. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết". Đó cũng là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thành lập và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam ngay từ khi có Đảng đến nay.
Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng Minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất (ngày nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 10/9/1955 như sau: "Lịch sử trong những năm qua đã tỏ rõ lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô địch, và Mặt trận dân tộc thống nhất đã nhiều lần thắng lợi.
Mặt trận Việt Minh đã giúp cách mạng tháng Tám thành công.
Mặt trận Thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi.
Chúng ta có thể tin chắc rằng: với sự cố gắng của mỗi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh."
Phát biểu tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác Mặt trận ngày 8/1/1962, Người chỉ rõ: "Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng. Cán bộ và Đảng viên ta cần nắm vững và chấp hành đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng và Nghị quyết Bộ Chính trị về vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam."
2. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng trong lịch sử, vị trí chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân trong các thời kỳ của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhiệm vụ chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Trong các thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định, đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa việc nhận thức các vấn đề mang tính chiến lược này, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới, tiêu biểu là các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung và phát triển năm 2011); các nghị quyết: Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; Nghị quyết 07-NQ/TW, ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất; Nghị quyết 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; Kết luận số 62-KL/TW ngày 08/12/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị, xã hội….
Trên cơ sở đó, Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định quan điểm của Đảng ta về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất như sau:
Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.
II. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
1. Khi cách mạng chưa giành được chính quyền về tay nhân dân, theo yêu cầu của cách mạng, Mặt trận có lúc đã thực hiện chức năng của chính quyền trong vùng giải phóng. Ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Mặt trận đã trở thành một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta. Mặt trận và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị nước ta tuy có vai trò, vị trí, chức năng và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhằm một mục đích chung là: Phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.
Hiến pháp năm 1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân...". Điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, ngày 12/6/1999 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó đã khẳng định:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". (Khoản 2, Điều 1)
Như vậy, vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do chính nhân dân, chính lịch sử xác định và thừa nhận.
2. Thực tiễn của cách mạng Việt Nam càng khẳng định vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta từ trước đến nay:
Thắng lợi huy hoàng của cách mạng tháng 8/1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939).
Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời (1955) đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc XHCN, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới.
Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với nhiều thành phần kinh tế, đại diện cho mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận trong nhân dân, một lực lượng xã hội. Cùng với sự cạnh tranh kinh tế để phát triển là sự phân hoá giầu nghèo. Nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp ra đời. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ, sự giao lưu văn hoá sẽ tác động đến lối sống và cách nghĩ của mỗi người và của mọi tầng lớp trong xã hội. Mặt khác, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu thực hiện chiến lược diễn biến hoà bình nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong giai đoạn mới của cách mạng, với nền dân chủ ngày càng phát triển thì vai trò, của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề hơn.
Nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm cho sự phát triển vững chắc của đất nước ta hiện nay.
III. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.
Tại Khoản 1, Điều 1 của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ rõ:
"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài".
Liên minh chính trị là sự liên kết giữa các lực lượng với nhau thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chính trị chung. Mục tiêu chung đó ở mỗi giai đoạn có khác nhau phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và lợi ích cơ bản của các lực lượng tham gia liên minh chính trị. Mục tiêu chung trong giai đoạn cách mạng hiện nay là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nền tảng của sự liên minh trong Mặt trận là khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Các thành viên trong liên minh chính trị (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) bao gồm:
Tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam;
Các tổ chức chính trị - xã hội là: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam;
Các tổ chức xã hội: Hội Chữ thập đỏ, Hội Người cao tuổi, Hội Người mù, Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Khuyến học Việt Nam, Hội Y học cổ truyền Việt Nam v.v...;
Tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp: Hội Nhà báo Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam...;
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Hội Sinh vật cảnh, Hội Châm cứu ...;
Quân đội nhân dân Việt Nam mà tiền thân là Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, là thành viên của Mặt trận Việt Minh, nay kế tục truyền thống đó là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Các cá nhân tiêu biểu trong các giai tầng xã hội: nhân sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, chức sắc các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài... Đó là những người có uy tín cao, có quan hệ và ảnh hưởng tốt, có sức thuyết phục đối với mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo, mỗi cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài... Thông qua những cá nhân tiêu biểu này Mặt trận Tổ quốc có thể tập hợp lôi cuốn lớp người mà họ có quan hệ và ảnh hưởng tham gia vào khối đại đoàn kết dân tộc, cùng nhau thực hiện chương trình phối hợp thống nhất hành động chung vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được qui định trong Điều 3 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp thống nhất hành động.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là cơ quan chấp hành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, do Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp đó hiệp thương cử ra có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam".
Các thành viên gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, tán thành điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp xem xét công nhận. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hợp tác, bình đẳng, đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau để cùng thực hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại của Nhà nước và các chương trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong sinh hoạt, các thành viên được tự do bày tỏ chính kiến của mình, cùng nhau bàn bạc, hiệp thương dân chủ để đạt tới sự nhất trí, không dùng mệnh lệnh, áp đặt. Nếu có những ý kiến khác nhau trên những vấn đề cụ thể thì cùng nhau trao đổi, thuyết phục, giúp nhau giải quyết. Khi phối hợp và thống nhất hành động, các thành viên phải thoả thuận với nhau về chương trình hành động chung và có nghĩa vụ phối hợp giúp đỡ nhau để thực hiện chương trình hành động đã được thoả thuận, đồng thời các tổ chức thành viên của Mặt trận vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ.
1. Mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
- Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo đối với Mặt trận bằng cách đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân; Đảng tiến hành công tác tuyên truyền vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên trong sinh hoạt và hoạt động của Mặt trận.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một thành viên của Mặt trận.Thực tiễn lịch sử từ ngày thành lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Là thành viên, Đảng tham gia Mặt trận như mọi thành viên khác. Đảng thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ và các hoạt động của tổ chức mình trong chương trình thống nhất hành động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Đại diện cấp uỷ đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc có trách nhiệm tham gia sinh hoạt đầy đủ, thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Cấp uỷ đảng phải giáo dục, yêu cầu đảng viên của mình gương mẫu thực hiện chương trình hành động chung đã được các tổ chức thành viên thoả thuận và tích cực tham gia công tác Mặt trận.
2. Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước:
Điều 5 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam qui định:
- Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
- Quan hệ phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước được thực hiện theo Quy chế phối hợp công tác do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước hữu quan ở từng cấp ban hành.
- Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả.
Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng luật pháp, nhân dân là người trực tiếp thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà nước phải tôn trọng và tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước.
Nhà nước phối hợp với Mặt trận trong việc chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân, trong việc vận động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào hành động thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế - xã hội.
3. Quan hệ giữa Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc với các tổ chức thành viên cùng cấp:
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc mỗi cấp chủ trì việc hiệp thương dân chủ giữa các thành viên để bàn bạc thực hiện những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương, của cuộc sống nhân dân, phối hợp xây dựng chương trình hành động chung và cùng nhau thực hiện chương trình thống nhất hành động đó.
V. NHIỆM VỤ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM.
1. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định trong Điều 2 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là:
- Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân;
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật.
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và các cấp chính quyền tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với cử tri và nhân dân; định kỳ nghe ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật sát hợp với cuộc sống. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc, Quy chế dân chủ ở từng địa phương, ngành và cơ sở, để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc nêu trên, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc từng cấp căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và tình hình cụ thể của mỗi địa phương để đề ra chương trình hành động cho Mặt trận cấp mình trong mỗi kỳ Đại hội, hay chương trình phối hợp thống nhất hành động từng năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
2. Nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong những năm tới là: Tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố mở rộng tổ chức và hoạt động, đồng thời đổi mới và nâng cao chất lượng mọi hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tích cực, chủ động, sáng tạo, tập hợp ngày càng rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững kỷ cương và ổn định xã hội, huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế -xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm tốt vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, cầu nối vững chắc giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
VI. YÊU CẦU, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI HỘI MẶT TRẬN CÁC CẤP TIẾN TỚI ĐẠI HỘI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM LẦN THỨ VIII:
1. Ý nghĩa, mục đích và yêu cầu của Đại hội Mặt trận các cấp:
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2014 - 2019) là sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trong bối cảnh đất nước ta đang tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức mới.
Quá trình chuẩn bị và tổ chức đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, dân chủ nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện đường lối chiến lược của Đảng về tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới. Đồng thời cũng là quá trình tổ chức Mặt trận từ cơ sở đến Trung ương đề ra các giải pháp thiết thực củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, lập thành tích chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Tiếp tục củng cố, tăng cường và xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xứng đáng là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của các tầng lớp nhân dân, có vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Việc tổ chức Đại hội phải được chuẩn bị chu đáo, phát huy dân chủ, trang trọng, thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm.
2. Đại hội Mặt trận các cấp và Đại hội lần thứ VIII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tiến hành những nội dung, công việc sau đây:
- Đại hội Mặt trận các cấp sẽ tiến hành đánh giá kết quả hoạt động nhiệm kỳ qua, xây dựng chương trình thống nhất hành động cho nhiệm kỳ mới và tham gia góp ý kiến vào các văn kiện dự thảo của Đại hội Mặt trận cấp trên với các nội dung sau:
Đánh giá đúng tình hình nhân dân và việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nêu rõ những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của công tác Mặt trận trong nhiệm kỳ qua; chú ý biểu dương những nhân tố mới, những cách làm hay; phát hiện những vấn đề mới đặt ra cần phải giải quyết trong nhiệm kỳ tới trên tinh thần cụ thể, sát thực tế và khả thi.
Chương trình hành động của Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nhiệm kỳ mới phải bám sát yêu cầu, nhiệm vụ của nghị quyết đại hội đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Kết luận số 62-KL/TW, ngày 08-12-2009 của Bộ Chính trị khóa X về "Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội" để xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể; nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, gắn liền với đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận ở các cấp, hướng mạnh về cơ sở, xây dựng khu dân cư văn hóa. Thể hiện rõ vai trò của Mặt trận trong việc thực hiện đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động rộng khắp và có hiệu quả; phát huy dân chủ, tiếp thu sáng kiến, kiến nghị của nhân dân; thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị vững mạnh; mở rộng công tác đối ngoại nhân dân để không ngừng nâng cao uy tín của Đảng và Nhà nước. Cổ vũ, phát huy tiềm năng, sức mạnh, trí tuệ nhân dân cống hiến cho đất nước, góp phần củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội.
Đại hội Mặt trận các cấp sẽ đóng góp ý kiến vào các văn kiện dự thảo của Đại hội Mặt trận cấp trên và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để Đại hội lần thứ VIII của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xem xét quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới đặt ra.
- Hiệp thương cử ra Uỷ ban Mặt trận và cơ quan lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc cấp mình: Việc chuẩn bị nhân sự của Uỷ ban Mặt trận các cấp thực hiện theo quy định tại điều 22, điều 24 của Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, tình hình thực tế của địa phương; coi trọng tính tiêu biểu, tính đại diện và tính thiết thực; mở rộng thành phần là những cá nhân tiêu biểu, đại diện các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài, có đủ điều kiện hoàn thành nhiệm vụ của Uỷ viên Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp mình. Tăng số uỷ viên là người ngoài Đảng (bảo đảm ở Trung ương đạt từ 45% - 50%, ở các cấp địa phương đạt từ 25% - 30%) để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực sự là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất, là hình ảnh tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở đó, số lượng ủy viên Ủy ban Mặt trận các cấp ở địa phương như sau:
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã: Từ 30 đến 45 người.
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp quận, huyện: Từ 45 đến 65 người.
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, thành phố: Từ 65 đến 95 vị (riêng đối với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa: tối đa là 120 người.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan Mặt trận các cấp theo hướng tinh gọn, đội ngũ cán bộ chuyên trách đủ về số lượng, có chất lượng và có cơ cấu phù hợp, đồng thời, coi trọng việc mở rộng và tạo điều kiện để phát huy đội ngũ cán bộ hưu trí, cán bộ không chuyên trách, lực lượng cộng tác viên thông qua hoạt động của các tổ chức tư vấn. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ các cấp chủ động tham mưu với cấp ủy đảng; đối với cấp tỉnh phân công đồng chí trong Ban Thường vụ làm Bí thư Đảng đoàn và giới thiệu để hiệp thương cử giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đối với cấp huyện, cấp xã phân công, giới thiệu đồng chí trong Ban Thường vụ để hiệp thương cử giữ chức Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp theo Chỉ thị số 25- CT/TW ngày 20- 5- 2013 của Ban Bí thư.
- Hiệp thương cử đoàn đại biểu đi dự Đại hội Mặt trận cấp trên trực tiếp.
VII. TRÁCH NHIỆM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN TRONG VIỆC THAM GIA ĐẠI HỘI MẶT TRẬN CÁC CẤP:
1. Tổ chức đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân với những nội dung như sau:
- Quán triệt và đánh giá kết quả việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay ở cấp mình.
- Khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta từ khi mới thành lập đến nay, đặc biệt là giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới.
Nêu bật những yêu cầu và nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức phối hợp của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI và Kết luận số 62-KL/TW, ngày 08-12-2009 của Bộ Chính trị khóa X về "Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội"; việc thể chế hóa các nội dung cơ bản về đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan phù hợp Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng. Trên cơ sở đó, cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận các cấp xem xét lại những việc đã làm được, những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Kiểm điểm kết quả thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong việc vận động, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; kết quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Phát động các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các công trình về kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn dân cư và ở các địa phương, đơn vị để thiết thực kỷ niệm 65 năm ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2013) và lập thành tích chào mừng đại hội Mặt trận của từng cấp tiến tới Đại hội lần thứ VIII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Đóng góp trí tuệ, tham gia xây dựng dự thảo báo cáo chính trị và cơ cấu nhân sự Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa mới của Đại hội Mặt trận cấp mình, dự thảo văn kiện Đại hội Mặt trận cấp trên và Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sửa đổi.
Đợt sinh hoạt chính trị được triển khai thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến địa bàn dân cư, gắn với kế hoạch thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được tổng kết vào dịp kỷ niệm 84 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2013).
2. Công tác tuyên truyền đại hội Mặt trận các cấp:
- Chủ đề tuyên truyền: Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thách thức,thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xây dựng hệ thống chính trị, góp phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập Quốc tế mục tiêu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tăng cường công tác tuyên truyền trước, trong và sau Đại hội; coi trọng công tác tuyên truyền trong nước và thông tin, tuyên truyền đối ngoại về chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tổ chức phát động phong trào thi đua sôi nổi, thiết thực, đạt kết quả cao nhất chào mừng đại hội Mặt trận Tổ quốc cấp mình và Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII. Thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân để góp phần cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước nhằm xây dựng, củng cố và phát triển môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng phát triển. Đồng thời, chú trọng đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài nhằm quy tụ, tạo sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy vai trò tích cực của người Việt Nam ở các nước trong việc mở rộng và tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc, tích cực ủng hộ sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.
Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tham mưu với cấp uỷ và phối hợp với Ban Tuyên giáo cấp ủy, các tổ chức thành viên của Mặt trận cùng cấp và các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và địa phương thường xuyên tổ chức các hình thức tuyên truyền phù hợp để kịp thời phản ánh các nội dung và phương thức sinh hoạt chính trị sinh động, các phong trào thi đua có hiệu quả ở cơ sở, cơ quan, đơn vị, từng khu dân cư; các sự kiện trước, trong và sau Đại hội Mặt trận các cấp tiến tới Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII (Nhiệm kỳ 2014 - 2019);
Phối hợp chặt chẽ với Đài Phát thanh, Đài Truyền hình, Báo của tỉnh, thành phố mở các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền từ khi tiến hành Đại hội Mặt trận cấp xã tới Đại hội Mặt trận cấp huyện, cấp tỉnh và Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII; vận động các cơ quan báo chí tích cực tham gia: Giải báo chí Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc lần thứ Mười Một, năm 2013 - 2014.
Phát huy lực lượng tuyên truyền viên, báo cáo viên trong việc tổ chức các hình thức tuyên truyền miệng như các buổi nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, báo cáo trong hội nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên, các buổi sinh hoạt của nhân dân ở khu dân cư...
Tùy điều kiện cụ thể của từng tổ chức, địa phương, đơn vị, có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu và kết quả thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về các kỳ đại hội của Mặt trận địa phương và Đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Phát động phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các cuộc vận động góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, thiết thực lập thành tích chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp:
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư" gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Phong trào "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" và các phong trào thi đua yêu nước của các tổ chức thành viên; thực hiện có hiệu quả, đạt nhiều thắng lợi cụ thể trên từng lĩnh vực, nội dung, được thể hiện qua mỗi công trình, mỗi việc làm của các chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai thực hiện ở mỗi địa bàn dân cư, mỗi địa phương, mỗi cơ quan, đơn vị, cụ thể:
Xây dựng các công trình chào mừng Đại hội Mặt trận các cấp: Lựa chọn các công trình kinh tế, xã hội thiết thực, phù hợp với khả năng thực hiện ở địa bàn dân cư như: Xây nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách, nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo; xử lý các vụ việc cụ thể đem lại quyền và lợi ích hợp pháp, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân trên địa bàn; phấn đấu xây dựng khu dân cư tiên tiến, làng văn hóa, khu phố văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa...
- Thi đua thực hiện có hiệu qủa Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở gắn liền với việc phòng chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Mỗi địa bàn dân cư, mỗi địa phương có cách làm hay, sáng tạo để vừa lắng nghe được ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời bảo vệ, bênh vực quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người nhân dân.
VIII - MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN:
1. Nhiệt liệt chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII.
2. Nhiệt liệt chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2014-2019.
3. Nhiệt liệt chào mừng Đại hội toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII.
4. Thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và Đại hội toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VIII.
5. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công !
6. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh !
7. Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh !
8. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm !
9. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
10. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta !