Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực vào ngày 1/1/2018 với nhiều quy định thay đổi so với Bộ luật Hình sự 1999. Trong số này có 10 tội danh được bỏ hình phạt tù chung thân đó là: Đưa hối lộ, Buôn lậu, Trộm cắp tài sản... là những tội sẽ bỏ hình phạt tù chung thân từ ngày 1/1/2018.
Tội Đưa hối lộ
Điều 289 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 10 triệu hoặc dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần sẽ bị phạt tù ít nhất một năm. Hình phạt cao nhất dành cho tội này là tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ 300 triệu trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Tại Bộ luật sửa đổi năm 2009, mức hình phạt cao nhất của tội này giảm xuống còn tù chung thân.
Tội danh này tại Bộ luật Hình sự sửa đổi 2015 có một số thay đổi về căn cứ buộc tội. Theo đó, người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích: vật chất, lợi ích phi vật chất để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì bị phạt thấp nhất: từ 20- 200 triệu, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm.
Mức hình phạt cao nhất cũng thay đổi, giảm xuống còn 20 năm. Tình tiết tăng nặng để áp dụng mức án này là trong trường hợp của hối lộ (tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác) có giá trị một tỷ đồng trở lên.
Tội Buôn lậu
Điều 153 Bộ luật Hình sự 1999 quy định người nào buôn bán trái phép qua biên giới: hàng hóa, tiền, ngoại tệ, đá quý… có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu hoặc dưới 100 triệu nhưng đã bị xử phạt hành chính, bị kết án một số tội về buôn bán, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ… sẽ bị phạt tiền 10-100 triệu hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt cao nhất là tử hình.
Khi sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, mức hình phạt cao nhất giảm xuống thành án tù chung thân.
Đến Bộ luật Hình sự 2015, mức hình phạt cao nhất tiếp tục giảm còn 20 năm tù. Các tình tiết tăng nặng để định khung hình phạt cao nhất là: vật phạm pháp có giá trị từ một tỷ đồng trở lên; thu lợi bất chính một tỷ đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh…
Tội Trộm cắp tài sản
Tội này được quy định tại điều 138 Bộ luật Hình sự 1999 và điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 như sau: người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai đến dưới 50 triệu hoặc dưới hai triệu nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tối thiểu ở mức cải tạo không giam giữ đến ba năm.
Ở Bộ luật Hình sự 1999, nếu phạm phải tình tiết tăng nặng như: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội phải đối mặt với mức án cao nhất là tù chung thân.
Bộ luật Hình sự 2015, bổ sung hai tình tiết tăng nặng là lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Hình phạt cao nhất của tội này được giảm còn 20 năm tù.
Tội Trốn đi nước ngoài
Điều 91 của Bộ luật Hình sự 1999 và điều 121 Bộ luật Hình sự 2015 đều quy định người nào trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, thì bị phạt tù.
Mức hình phạt cao nhất theo Bộ luật năm 1999 là tù chung thân; tại Bộ luật Hình sự 2015 là 20 năm tù.
Tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản
Điều 137 Bộ luật Hình sự 1999 nêu rõ người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai đến dưới 50 triệu hoặc dưới 500.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù.
Nếu người phạm tội chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng sẽ phải chịu mức án cao nhất là tù chung thân.
Cùng tội danh đó, điều 172 Bộ luật Hình sự 2015 bổ sung tình tiết tăng nặng là lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Mức hình phạt cao nhất được giảm xuống còn 20 năm tù.
Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Theo điều 140 của Bộ luật Hình sự 1999 và điều 175 Bộ luật 2015, người nào chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới 50 triệu hoặc dưới bốn triệu nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội Chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mức hình phạt tối thiểu là cải tạo không giam giữ đến ba năm.
Trong trường hợp tài sản chiếm đoạt trị giá 500 triệu đồng trở lên, người phạm tội sẽ bị áp dụng tình tiết tăng nặng, mức phạt theo Bộ luật Hình sự 1999 là tù chung thân. Tại luật mới có hiệu lực từ 1/1/2018, hình phạt cao nhất là 20 năm tù.
Tội Hủy hoại hoặc Cố ý làm hư hỏng tài sản
Điều 143 Bộ luật Hình sự 1999 quy định người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai đến dưới 50 triệu hoặc dưới hai triệu nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm.
Người phạm tội thuộc nếu gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng phải nhận mức hình phạt cao nhất là tù chung thân.
Với tội danh nêu trên, điều 178 Bộ luật Hình sự 2015 thay đổi mức hình phạt cao nhất thành 20 năm tù dù mức tiền chiếm đoạt, mức hình phạt tối thiểu và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không thay đổi.
Tội Khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh
Điều 323 Bộ luật Hình sự 1999 nêu: Người nào khi bị địch bắt làm tù binh mà khai báo bí mật quân sự hoặc tự nguyện làm việc cho địch, thì bị phạt tù thấp nhất một năm. Nếu người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng sẽ bị xử phạt tới tù chung thân.
Bộ luật Hình sự 2015 thay đổi hình phạt cao nhất còn 20 năm tù, các mức phạt khác giữ nguyên.
Tội Bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu
Tội danh này được định nghĩa tại điều 324 Bộ luật Hình sự 1999 như sau: Người nào bỏ vị trí chiến đấu hoặc không làm nhiệm vụ trong chiến đấu sẽ bị phạt tù tối thiểu năm năm. Nếu phạm tội này mà gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nghi can có thể bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Điều 401 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội này đã giữ nguyên nội dung cấu thành hành vi song mức án tối thiểu chỉ còn hai năm. Mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù.
Tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Theo điều 226b Bộ luật Hình sự 1999, người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi như: truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại, kinh doanh; làm giả thẻ ngân hàng… thì bị phạt tiền 10-100 triệu hoặc phạt tù ít nhất một năm.
Nếu chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, mức án cao nhất là tù chung thân.
Tại tội danh này, điều 290 Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức phạt tối thiểu là cải tạo không giam giữ tới ba năm, còn hình phạt cao nhất là 20 năm tù. Tình tiết tăng nặng mức phạt là chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 500 triệu trở lên; số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.