Bí ẩn trong ngôi mộ cổ gần 2.000 năm ở Hà Nội

16:12, 21/04/2011

Việc phát hiện các ngôi mộ và giếng cổ dưới khu Ciputra, Hà Nội đang khiến người dân cả nước quan tâm vì những ý nghĩa lịch sử của nó. Còn các nhà khảo cổ thì rất phấn khởi khi tìm ra những hiện vật quý giá cho phép họ hiểu sâu hơn đời sống ông cha ta xưa.  

 

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường, Phó Tổng thư ký Hội Khảo cổ học Việt Nam đã thức đến 2 giờ sáng ngày hôm nay (21/4) để hoàn thành bài viết về những điều thú vị trong hai ngôi mộ và giếng cổ:  

 

Vào lúc 9 giờ 47 phút sáng 2/4, tôi nhận được điện thoại của Tiến sĩ Nguyễn Doãn Tuân - Trưởng Ban quản lý di tích - danh thắng Hà Nội: “Anh Cường ơi! Anh thu xếp công việc và tới ngay gần cổng Ciputra sát đường lên cầu Thăng Long ấy. Họ vừa phát hiện ra mộ đấy. Chủ tịch UBND xã Đông Ngạc đón anh ở đó”.

 

Nghe xong tôi khoác vội tấm áo choàng và phi ngay xe máy lên Ciputra. Chỉ cách cổng Ciputra về phía bắc khoảng 100 mét là thấy ngay công trường ngổn ngang đất đá, máy xúc đang đào bới của Xí nghiệp xây dựng số 1, thuộc Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Vừa lúc đó Tiến sĩ Nguyễn Doãn Tuân cũng lên tới hiện trường. Hoá ra từ 3 giờ chiều hôm trước, gầu xúc của đơn vị thi công trong khi đặt hệ thống cống ngầm ở độ sâu 2 mét đã quệt phải một hàng gạch làm lộ ra ngôi mộ thứ nhất, phía trong có lớp bùn dày khoảng 35cm phủ kín nền mộ. Thấy vậy họ đình lại và gọi điện báo về xã, rồi xã cũng đã báo ngay lên huyện, và huyện đã báo cho Ban quản lý Di tích, Danh thắng Hà Nội.

 

Sáng hôm sau, lúc 8 giờ 30 phút, máy xúc định chuyển hướng cào đất tiếp ở cách chỗ cũ khoảng 1m50, thì không ngờ lại quệt phải nóc ngôi mộ thứ hai, làm vỡ một phần nóc mộ mà bên trong lộ rõ lớp bùn lấp tới gần một phần ba thành mộ.

 

Tôi bàn với anh Tuân, anh Chiến là ta nên khai quật ngay chiều hôm đó. Liên hệ với ông Phạm Hồng Khang - Phó Giám đốc Công ty TNHH Nam Thăng Long - đơn vị chủ đầu tư, ông đồng ý cho tạm dừng thi công và cấp kinh phí để chúng tôi “xung trận”.

 

Tôi gọi điện cho Viện trưởng Viện Khảo cổ học: Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tống Trung Tín và Phó Viện trưởng - kiêm Tổng thư ký Hội Khảo cổ học Nguyễn Giang Hải để báo cáo. Các anh đồng ý để Hội Khảo cổ học đứng ra khai quật khẩn cấp 2 ngôi mộ cổ này như đề nghị của Tiến sĩ Nguyễn Doãn Tuân.

 

Tôi gọi điện cho Tiến sĩ Hà Văn Cẩn đề nghị anh cùng các bạn trẻ: Nguyễn Văn Mạnh,  Mai Thuỳ Linh trong Phòng nghiên cứu Khảo cổ học Lịch sử cùng tham gia khai quật. Tôi cũng lại gọi điện cho hoạ sĩ Võ Thanh Hưởng, hội viên Hội Khảo cổ học Việt Nam đề nghị chị sẽ chịu trách nhiệm cho các bản vẽ của cuộc khai quật.

 

Kể cả Nguyễn Anh Tuấn - một cán bộ trẻ Phòng nghiên cứu Môi trường - Con người cổ, đoàn khai quật sẽ có con số tròn 6 người. Chiều 2/4 tôi làm giấy phép cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, đề nghị xin được khai quật khẩn cấp.

 

Ngay chiều hôm đó, chiếc bình gốm khá to nằm nghiêng trên một đĩa gốm đã được phát hiện ở sát cửa mộ lớn. Bùn trong mộ này nhão nhoét, rất khó làm và phải thận trọng, nếu không là sẽ dẫm phải hiện vật.  Sau khi bàn bạc, chúng tôi quyết định đánh dấu vị trí các hiện vật trong mộ và đưa toàn bộ số cổ vật về bảo quản tại Phòng văn hoá Huyện Từ Liêm.

 

Hai ngôi mộ xuất lộ dần, từng hàng gạch được làm sạch. Ngôi mộ to: dài 4,7m; rộng 2,15m và cao 1,9m. Ngôi mộ bé: dài 3,9m; rộng 1,2m và cao 0,95m. Các bạn trẻ trong đoàn đã tìm được biên mộ và phân biệt rất rõ đất cái hoàng thổ và đất lấp mộ.

 

Chỉ ngay mấy ngày đầu khai quật tôi đã thấy điều phân biệt của ngôi mộ cổ này với các ngôi mộ khác, chính là chạy dọc theo bên ngoài nóc mộ là hàng gạch khoá vòm mộ. Trông từ trên xuống, 2 ngôi mộ cổ như 2 con cá nằm song song với nhau theo hướng tây bắc - đông nam và đều có “dải vây cá trên lưng”.

 

Ngôi mộ cổ to như gian nhà mà tôi được khai quật cùng nhà khảo cổ lão thành Đỗ Văn Ninh ở Quảng Ninh vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, cũng như những ngôi mộ khác ở Hải Dương... chưa bao giờ thấy “hàng gạch khoá mộ” như 2 ngôi mộ ở đây.

 

       

 

             Những dòng chữ cổ trong ngôi mộ lớn.

 

Trong ngôi mộ lớn, xen giữa những dìa bên của các viên gạch là mẫu trang trí hoa văn “đồng tiền” và hoa văn “trám lồng”. Còn ngôi mộ nhỏ hầu hết là có trang trí hoa văn “xương cá” một số nhỏ là “trám lồng”. Nhưng một điều bí mật chưa được giải mã là trong ngôi mộ lớn có tới 40 chữ Hán cổ: bên trái là bộ “thổ”, bên phải là bộ “mộc”.

 

Tôi đã tìm gặp những “cây đa, cây đề” trong ngành Hán học để hỏi về chữ cổ này, nhưng tới nay vẫn chưa có câu trả lời. Giá 2 bộ đổi chỗ cho nhau thì chẳng cần bàn cãi, vì đó là chữ “đỗ”.

 

Trong ngôi mộ lớn tổng cộng tìm thấy 28 hiện vật: 16 bát, đĩa, bình gốm có men và không có men, 9 chiếc đinh sắt đã bị rỉ, 1 hạt chuỗi thuỷ tinh màu xanh (không phải một “chuỗi hạt” như có báo đã đưa tin), một phiến đá dẹt hình chữ nhật vuông vắn màu xanh nhạt, mà theo nhà thạch học Lê Thị Thu Hương thuộc loại đá phiến xanh. Một bát đồng rất mỏng đã bị vỡ nát.

 

Đặc biệt, ngay sáng 6/4, ở lớp bùn đáy mộ, Nguyễn Anh Tuấn đã phát hiện ra một lớp gạo, thóc cháy. Chúng tôi báo ngay cho Thạc sĩ Nguyễn Thị Mai Hương - Trưởng phòng nghiên cứu Con người - Môi trường cổ Viện Khảo cổ học. Chị đã lên ngay lấy mẫu phân tích.

 

Hôm sau khi chỉnh lý những đồ gốm tại Phòng văn hoá huyện, chúng tôi lại phát hiện 2 bát nhỏ, khi nạo hết bùn ở lớp trên lộ dần ra những hạt gạo, thóc cháy. Ngày 10/4, Trưởng phòng Mai Hương gọi điện thông báo cho tôi giọng hồ hởi: “Rất hay thầy ạ”. Bên chiếc kính lúp với độ phóng đại lớn chị đã chụp và đo đạc được những hạt thóc, gạo cháy này. Một số hạt thóc còn giữ được cuống và một phần vỏ trấu. Hạt thóc và gạo thuộc dạng hạt bầu đến tròn (tỉ lệ dài/rộng 1,7 - 2,5mm).

 

        

             Thóc cổ trong bình.

 

Ngôi mộ nhỏ chỉ vẻn vẹn có 5 đồ gốm, trong số đó đặc biệt có bình gốm đầu gà rất đẹp còn rõ cả mào, mắt và đuôi gà. Có lẽ đây là hiện vật quý nhất trong lần khai quật này.

 

Cả 2 ngôi mộ đều không có dấu vết của gỗ quan tài và di cốt người. Theo tôi đã bị tiêu hết như phần lớn các mộ táng thời Bắc thuộc ở Việt Nam.

 

Tôi nhớ mãi hôm sinh viên Trường Đại học văn hoá tới thăm khu mộ có em sinh viên hỏi tôi: “Thưa thầy! Sao quan tài và xương bị tiêu mà hạt gạo lại còn”? Một câu hỏi rất thông minh. Tôi đã giải thích cho em rằng: nước ngấm vào trong mộ qua khe nứt tạo nên một lớp bùn mỏng ở đáy mộ, chính nó đã bảo vệ cho hạt thóc, gạo cháy không bị phân huỷ.

 

Ngược lại quan tài và di cốt đã bị tiêu vì có một khoảng không trong mộ, đó là môi trường tốt để vi khuẩn phân huỷ chẳng những chỉ có di cốt mà cả quan tài nữa. Lẽ dĩ nhiên đinh sắt thì … “bọn đó” không “gặm” được.