Tết nhảy của người Dao ở Đại Từ

14:36, 30/01/2019

Mỗi khi hoa đào chớm nở, khắp các bản người Dao, xã Hoàng Nông huyện Đại Từ lại rộn ràng tổ chức Tết nhảy. Đây là một trong những lễ truyền thống, hội tụ nhiều nét văn hóa độc đáo và những giá trị nhân văn sâu sắc, tiêu biểu, thể hiện lòng thành kính, uống nước nhớ nguồn đối với tổ tiên, đấng sinh thành.

Người Dao ở Đại Từ sống tập trung thành làng, bản tại các xã Quân Chu, Hoàng Nông, Phú Xuyên. Trải qua nhiều biến cố thiên di và cuộc sống du canh du cư, người Dao ở Đại Từ vẫn duy trì nhiều lễ tục, diễn xướng dân gian được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tiêu biểu là: Lễ cúng Bàn Vương, lễ cấp sắc và Tết nhảy - một trong những nghi lễ quan trọng bậc nhất của người Dao. Tết nhảy là nghi lễ cúng Bàn Vương - thủy tổ của dân tộc Dao, nhằm tu bổ bàn thờ định kỳ, nghi lễ tạ ơn tổ tiên và các vị thần được tổ chức vào tháng 12 Âm lịch, mỗi chu kỳ Tết nhảy từ 15 đến 20 năm, với mong ước, con người sẽ vượt qua mọi gian khổ, đoàn kết chống lại các thế lực làm hại đến đời sống yên lành và cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh.

Chúng tôi đến gia đình ông Triệu Văn Quý và Triệu Văn Việt, xóm Đồng Khuôn, xã Hoàng Nông đúng ngày gia đình ông tổ chức lễ Tết nhảy. Theo tục lệ, Tết nhảy chỉ tổ chức tại không gian “Nhà cái” (nhà có bàn thờ tổ) đây là việc của gia đình, nhưng được cả bản tham gia giúp sức, từ việc nấu cỗ cho đến các nghi thức lễ lạt nên cũng được coi như Tết chung của cả vùng thể hiện lòng thành kính biết ơn, tri ân công đức sâu dày của tổ tiên. Lễ hội Tết nhảy thường được cúng vào buổi sáng, thời gian lễ hội diễn ra đầy đủ là khoảng 3 ngày 3 đêm. Lễ hội Tết nhảy gồm các nghi lễ: Cúng Tết Nguyên đán; cúng chuyển tiếp (cúng từ Tết Nguyên đán sang Tết nhảy); khai đàn. Lễ vật dâng tế gồm: Hương, hoa, đăng, quả, thủ lợn, gà, xôi, bánh dầy, rượu, nước, tiền đồng xu, cờ các loại, dao thờ… Đội cúng tế gồm 3 người: 1 người là thầy cúng, 2 người phụ giúp thầy cúng. Khi thầy cúng đến, chủ nhà nhờ ông cúng Hương hỏa tổng thần, Thượng đàn binh, Hạ đàn tượng, Bàn vương thánh đế, Chủ trạch long thần, tổng thể gia tiên, Tam Thanh chính minh, Cao chân đại đạo, Tiên đường Tứ phủ về bàn thờ, mời Hạ đàn binh sư phụ cùng cho phép gia đình và dân làng mở lễ hội Tết nhảy.

Ông Phùng Kim Thắng, Già làng của đồng bào dân tộc Dao xã Hoàng Nông cho biết: Nét đặc sắc của Tết nhảy chính là phần hội, khi tiếng trống, tiếng kèn, tiếng chuông đồng vang lên rộn rã, những người đàn ông người Dao cùng nhau nhún nhảy say sưa theo điệu nhạc. Đầu tiên là điệu múa đưa đường, bắc cầu để đón thần linh, tổ tiên về ăn Tết. Tiếp đó là điệu chào bố mẹ, tổ tiên và sau đó là điệu mời tiên nương giáng trần.

Ngoài ra, trong Tết nhảy, người Dao còn có nhiều loại hình diễn xướng dân gian như: Trình diễn các điệu múa chuông, múa rùa, múa kiếm và đọc các bài thơ về các vị thần. Lễ và hội cùng đan xen nhau, người ta vừa cúng vừa múa và đọc thơ. Múa chuông là điệu múa thể hiện nghi lễ tạ ơn tổ tiên và các vị thần đã bảo vệ cuộc sống cho dân làng, dòng tộc, cầu xin tổ tiên phù hộ, che chở cho mọi thành viên được mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Múa rùa là một trong những điệu dân vũ được thể hiện trong Tết nhảy. Trước bàn thờ cúng Bàn Vương, thầy cúng đi trước, theo sau là tốp thanh niên ăn mặc đẹp, gọn gàng nối tiếp nhau nhảy quanh đàn cúng, diễn tả các động tác tìm, bắt, trói rùa, ba ba khiêng về để dâng cúng Bàn Vương và các vị thánh thần, tổ tiên. Điệu múa thể hiện lòng can đảm, sự rèn luyện gian nan mới có được thành công. Phần kết hợp giữa lễ và hội được tổng hợp xen kẽ giữa việc vừa cúng tế vừa đọc thơ, hát và múa mời các vị thần, mời tổ tiên và thực hiện trình diễn các điệu múa… và kết thúc là đọc bài chiêu binh, chiêu lúa gạo, múa khao quân tổng thần, múa tiễn các loại ôn dịch, rồi chia tiền cho các thần, hóa tiền giấy… rồi mời các thần về miếu và kết thúc lễ hội trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thanh la và tiếng chuông báo hiệu một kỳ lễ hội thành công.

Lễ hội Tết nhảy của người Dao là một phong tục truyền thống độc đáo không thể thiếu trong đời sống tinh thần, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, sự tôn kính tổ tiên, gắn kết cộng đồng để cùng nhau xây dựng làng bản được ấm no, hạnh phúc. Với những nét văn hóa đặc sắc đó nhằm giáo dục cho con cháu thế hệ sau gìn giữ lưu truyền.