Tôi gọi cụ Duyến bởi vì hiện giờ cụ đã về với tiên tổ.
Hồi trước, bố tôi và cụ Duyến cùng làm cán bộ của trường trung cấp dạy nghề của tỉnh mà tôi theo học. Căn phòng tập thể của bố tôi liền vách với phòng cụ Duyến. Những lúc rỗi rãi, tôi thường đến chơi với bố nên cũng có phần hiểu về cụ Duyến. Tuổi cụ với bố tôi sàn sàn nên ngày ấy tôi gọi cụ là bác. Thế mà Kiều Hoa học cùng lớp với tôi, kém tôi một tuổi nhưng vẫn gọi cụ Duyến bằng anh xưng em ngọt như mía lùi.
Minh họa: Thanh Hạnh |
Kiều Hoa đẹp nhất trường nhưng chưa để mắt đến ai. Hồi ấy, thấy Hoa hay có mặt ở phòng cụ Duyến, tôi tưởng họ có quan hệ họ hàng, nhưng bố tôi bảo: “Bác Duyến trước đây là thợ điện bậc cao nên cô Hoa đến để học hỏi thêm về nghề”. Tôi hiểu sự qua lại của Hoa với cụ Duyến chỉ là để phục vụ việc học, nhưng hầu hết bạn học cùng lớp không nghĩ như thế.
Mỗi ngày Hoa đến phòng cụ Duyến một dày hơn. Có những buổi tối, tận hơn mười giờ, nghĩa là quá giờ quy định của nội quy nhà trường, Hoa mới về kí túc xá. Bởi vậy, mối quan hệ giữa cụ Duyến với Kiều Hoa trước mắt bạn bè cùng lớp càng trở nên “có vấn đề”. Nhưng xét cho cùng thì họ không có gì vi phạm về luật pháp.
Ngày ấy, cụ Duyến ngoài bốn mươi nhưng vẫn là trai tân. Tiếng vậy nhưng họ chưa bao giờ có những hành động mờ ám. Họ chỉ ngồi cùng phòng, tỏ ra tâm đầu ý hợp. Và lại, cũng đã có ai nghe được nội dung những cuộc trò chuyện giữa cụ Duyến và Kiều Hoa ra sao đâu. Trong lớp, chỉ có tôi, những lúc sang chơi với bố nên đôi khi được lọt vào tai những chuyện họ tâm sự cùng nhau. Điều tôi biết rất rõ là cả hai cùng có chung sở thích uống chè búp và yêu ghi ta.
Vào mỗi buổi tối đến với cụ Duyến, công việc đầu tiên của Hoa là xúc ấm pha một ấm chè ngon. Ngoài những kiến thức uyên bác hơn đời, cụ Duyến còn là người rất tỉ mỉ trong cuộc sống thường nhật. Một lần, tôi được nghe trọn vẹn một cuộc trò chuyện giữa cụ và Kiều Hoa vọng sang. Giọng cụ Duyến trầm ấm:
- Nước pha trà đúng là cần phải thật nóng, nhưng chỉ từ tám mươi lăm đến chín mươi độ là cùng. Cho nên, em không cần phải đun lại nước trong phích. Nước sôi quá độ sẽ làm cho cánh trà bị bã hóa nhanh, mất mùi thơm, nhất là khi pha tuần nước thứ hai trà sẽ bị nồng. Cái điều đơn giản ấy nhưng rất ít người biết đấy.
Tiếng Hoa cười, giọng đầy vẻ thán phục:
- Ồ! Em cứ tưởng là nước phải sôi thật kĩ thì pha trà mới tốt. Anh không nói thì em cũng không biết đấy.
Giọng cụ Duyến trở nên êm ái và đầy vẻ triết lý:
- Pha trà và thưởng trà cũng giống như tình yêu, rất cần sự nồng cháy, nhưng nếu quá độ thì lại dễ chóng tàn. Chắc em đã từng chứng kiến, có những đôi trẻ tình yêu quá nồng nàn, tưởng chừng thiếu nhau thì không thể sống nổi, vậy mà chỉ cưới nhau vài năm đã ra tòa li hôn. Tình yêu ấy giống như một ấm trà pha hỏng.
Trời đất! Cụ “tán gái” thế thì cánh trẻ chúng con xin chắp tay lạy sống cụ ba vái.
Rồi sau mỗi tuần trà, tiếng ghi ta lại bắt đầu vẳng lên. Cụ Duyến là người chơi ghi ta có hạng. Tiếng đàn của cụ mỗi khi cất lên hòa cùng giọng hát trầm ấm, hiu hắt buồn như những cơn gió heo may, làm trái tim người tan nát.
Cụ Duyến có một ca khúc “tủ” là bài “Bèo dạt mây trôi”. Nhưng tôi biết Kiều Hoa còn mê bài dân ca ấy hơn cả cụ Duyến. Lần nào Kiều Hoa sang chơi, bài dân ca đó cùng tiếng ghi ta cũng vang lên ít nhất vài lượt. Có lần vô tình nhìn sang, tôi thấy Kiều Hoa hát theo tiếng đàn mà mấy giọt nước mắt cứ lăn dài trên má. Người xưa thường nói “Một túp lều tranh hai trái tim vàng”. Không hiểu sao lúc ấy tôi chợt xuất hiện ý nghĩ câu nói kia chính là dành cho họ.
Nhưng trong lớp tôi nhiều người không nghĩ thế. Họ bảo: ông Duyến già rồi còn chơi trống bỏi. Họ đoán già đoán non: “Đôi ấy mà lấy nhau thì ba bảy hai mốt ngày là tan. Cách nhau hơn hai chục tuổi chứ ít ỏi gì”. Có người thương hại sự dại dột của Kiều Hoa.
Nhưng rồi chuyện gì đến vẫn cứ phải đến. Khoảng vài tuần trước khi mãn khóa học, lễ cưới giữa cụ Duyến với Kiều Hoa được tổ chức ngay tại trường. Tiệc cưới chỉ có trà, kẹo lạc cùng tiếng ghi ta bập bùng.
Cuối năm thì trường dạy nghề của chúng tôi giải thể, mỗi người một ngả. Tôi được điều lên tỉnh Lào Cai công tác rồi lấy vợ, sinh sống tại miền Tây Bắc xa xôi đến gần hết đời người. Quãng đời học tập ở trường dạy nghề cũng dần phôi pha. Chuyện về cụ Duyến với Kiều Hoa cũng thành dĩ vãng.
* * *
Cho đến tận ngày về hưu tôi mới trở về quê lâu lâu. Câu chuyện của cụ Duyến và Kiều Hoa mới có dịp trở lại trong tâm trí tôi.
Hỏi thăm mãi mới biết sau ngày nghỉ công tác, cụ Duyến và Kiều Hoa về sống tại một vùng chè của tỉnh. Nhưng hơi buồn vì tôi đã vĩnh viễn không còn được gặp lại họ. Năm ngoái, cả hai vợ chồng cụ Duyến đã về với tiên tổ. Tôi ngậm ngùi đến thắp cho họ một nén hương, cũng là để tưởng nhớ lại những tháng năm quá khứ. Buồn, nhưng tôi lại thấy vui vì như vậy họ đã sống với nhau tới trọn đời chứ không phải như trước đây người ta từng nghĩ một cách nông cạn.
Bích Trà, cô con cả của vợ chồng cụ Duyến là giám đốc một hợp tác xã sản xuất và chế biến trà. Biết tôi là bạn cũ của cả bố lẫn mẹ, cô có vẻ hồ hởi:
- Từ ngày nghỉ hưu, cả hai ông bà trở thành chuyên gia thẩm định trà của hợp tác xã chúng cháu. Về già, các cụ sống rất đơn giản, nhưng có hai cái thú là thưởng trà và vừa chơi đàn ghi ta vừa hát thì cho đến gần lúc trút hơi thở cuối cùng các cụ mới chịu buông.
Tôi bồi hồi hỏi Trà:
- Cụ ông mất được sáu tháng thì cụ bà mất hay sao?
- Đúng thế ạ? Khi ở bệnh viện, mẹ cháu trong tình trạng hôn mê, cháu có hỏi bác sĩ, là mẹ cháu mắc bệnh gì thì ông cho biết bà không có bệnh gì hết. Ông ấy nửa đùa nửa thật nói thêm, nếu gọi là bệnh thì có lẽ mẹ cô mắc căn bệnh vì quá thương nhớ chồng mà mất.
Tôi ngước nhìn lên ban thờ thấy bày bộ ấm pha trà xinh xinh và một cây ghi ta nhỏ bằng bàn tay. Bích Trà tỏ ra rất hiểu bố mẹ. Tôi thoảng nghĩ: Bà Hoa đi theo chồng là để cùng ông đối ẩm và nghe ông chơi bài “Bèo dạt mây trôi”.
Câu chuyện tôi kể, hẳn có đôi chỗ hơi khác thường làm bạn đọc khó tin. Nhưng tôi xin cam đoan với các bạn rằng đúng là đã có một đôi vợ chồng như thế.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin