'Địa chỉ đỏ' dưới chân Tam Đảo

Chí Cường 18:54, 28/07/2025

Dưới chân núi Tam Đảo hùng vĩ, vùng đất thuộc các xã: Quân Chu, Vạn Phú, Đại Phúc và Đại Từ là "địa chỉ đỏ" tri ân những người có công với đất nước. Ở đó có Di tích 27-7 thờ phụng các anh hùng liệt sĩ. Cũng ở vùng đất này còn có an dưỡng đường dành cho người có công và thân nhân người có công với cách mạng qua các thời kỳ.

Đã có hàng trăm lượt phụ nữ là vợ liệt sĩ được an dưỡng tại Trung tâm Điều dưỡng người có công.
Đã có hàng trăm lượt phụ nữ là vợ liệt sĩ được an dưỡng tại Trung tâm Điều dưỡng người có công.

Tháng Bảy, mưa rả rích. Mưa từ núi Tam Đảo ùa về, rồi đi. Từng cơn mưa ào ạt, bất chợt gợi niềm tri ân sâu sắc trong tâm khảm bao người. Trong khuôn viên Di tích lịch sử 27-7, xóm Bàn Cờ, xã Đại Phúc, đứng dưới tán đa cổ kính, nghe mưa rơi lòng cảm nhận như vẳng vọng từ miền quá khứ từng câu chuyện của một thời đất nước gian lao. Nhất là ở giai đoạn những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, các xóm: Trại Ngò, Đồng Cháy, xóm Chòi, xóm Cao Chùa, xã Đại Từ được Chính phủ lựa chọn làm an dưỡng đường dành cho thương binh từ các mặt trận chuyển về.

Mới đó đã gần tám mươi năm, thời gian vô tình trôi, nhưng còn đọng lại trong lòng người những câu chuyện cảm động của tình người. Dù chưa một lần dựng thành phim ảnh, nhưng câu chuyện tình quân - dân sâu sắc ấy như khắc vào tâm trí các thế hệ người Việt Nam. Đậm nét đến mức khi nhắm mắt lại, nghe tiếng lá rơi mà cảm nhận như thấy người năm xưa với bước chân nhẹ nhàng cùng giọng nói làm mềm đi tiếng đạn bom. Bước chân và giọng nói ấy là của Hội mẹ chiến sĩ “Đón thương binh về làng” nuôi dưỡng trong những năm cuối thập niên bốn mươi của thế kỷ trước.

Hồi bấy giờ dưới chân núi Tam Đảo có 2 an dưỡng đường nuôi dưỡng thương binh. An dưỡng đường số 1 và An dưỡng đường số 2 cùng ở xã Đại Từ. Các An dưỡng đường gắn bó sâu sắc với những tên người địa phương. Ví như An dưỡng đường số 1 gắn với cụ Nguyễn Thị Đích (Bá Huy); An dưỡng đường số 2 gắn với tên cụ Đặng Văn Ẩm.

Cụ Bá Huy và cụ Đặng Văn Ẩm không chỉ là các gia đình giàu có nhất trong vùng về vật chất, mà còn giàu lòng nhân ái, yêu nước, tích cực ủng hộ, giúp đỡ bộ đội về tiền của, công sức. Cụ Bá Huy đã nhường hẳn ngôi nhà của gia đình đang ở cho Phòng Thương binh (Bộ Quốc phòng) làm việc. Thấy thương binh đông, không đủ chỗ ở, cụ bỏ tiền mua vật liệu và huy động bà con dựng mới 10 gian nhà gỗ, đồng thời mua sắm đầy đủ giường, chiếu, chăn, màn cho 50 thương binh ở điều dưỡng. Còn cụ Đặng Văn Ẩm nhường 8 gian nhà cho An dưỡng đường có chỗ điều trị, chăm sóc thương binh.

Để bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội và thương binh, cụ Bá Huy hiến tặng cho An dưỡng đường 3 mẫu ruộng; 1 con trâu và 3 tấn thóc. Còn cụ Đặng Văn Ẩm nhường toàn bộ khu trang trại đầm Tàu Voi cho bộ đội, thương binh trồng rau, cấy lúa và 4 con trâu. Vừa tích cực ủng hộ bộ đội, các cụ hăng hái vận động bà con trong vùng cùng tham gia giúp đỡ An dưỡng đường lương thực, thực phẩm, chăm sóc thương binh, bệnh binh và bộ đội đau ốm.

Nghĩa cử ân tình của các cụ Bá Huy và cụ Đặng Văn Ẩm cùng người dân bên chân núi Tam Đảo đã giúp các An dưỡng đường vơi bớt khó khăn, có điều kiện tốt hơn để tổ chức chăm sóc sức khỏe cho thương binh, bệnh binh. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, hành động ấy hết sức có ý nghĩa, được Đảng, Nhà nước ghi nhận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen cụ Bá Huy. Thư có đoạn viết: “… Anh em thương binh đã hy sinh xương máu để giữ gìn Tổ quốc. Bà đã hy sinh tiền của để giúp đỡ anh em thương binh. Như thế là bà đã giúp sức vào công việc giữ gìn Tổ quốc. Như thế là bà đã làm mẫu cho đồng bào thực hành cái khẩu hiệu: Có tiền, giúp tiền, có sức, giúp sức. Đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành công. Tôi thay mặt Chính phủ và anh em thương binh cảm ơn bà và khen ngợi bà…”.

Các cựu chiến binh, thương binh cùng kể chuyện chiến trường.
Các cựu chiến binh, thương binh cùng kể chuyện chiến trường.

Vào những năm đất nước kháng chiến, thương binh được chuyển về an dưỡng đường ngày một nhiều. Thiếu y tá, hộ lý nên các chị, các mẹ trong vùng tích cực đến giúp An dưỡng đường chăm sóc thương binh. Cũng từ việc tiếp xúc hằng ngày với thương binh, các chị, các mẹ được nghe bộ đội kể chuyện chiến đấu ngoài mặt trận, nhất là các cô thôn nữ đã từ cảm phục đến cảm mến rồi nặng lòng yêu người thương binh từ khi nào không hay.

Những câu chuyện về tình duyên cảm động đầy đức hy sinh ấy còn được lưu truyền trong Nhân dân. Bấy giờ là các chị: Tạ Thị Vệ; Trần Thị Lệ; Nguyễn Thị Tình; Hoàng Thị Cậy… đã nên vợ thành chồng với các thương binh nặng. Các thanh nữ của một thời xuân sắc ấy phần nhiều đã cùng chồng về với thế giới người hiền. Nhưng tôi còn nhớ tháng 7-2017, đến thăm cụ Tạ Thị Cậy, xóm Đồng Khâm, xã Đại Từ. Cụ kể: Ngày An dưỡng đường ở đây, địa phương có phong trào giúp đỡ thương binh. Người già, trẻ con thuộc lòng câu thơ: “Bữa ăn chín cũng như mười/Mỗi nhà nuôi lấy một người thương binh”. Tôi cùng chị em tham gia khâu vá quần, áo cho thương binh, phải lòng “người ta” mà thành duyên vợ chồng.

Tất cả đã đi về miền hoài niệm. Tôi đứng lặng người dưới tán đa cổ thụ trước ngôi nhà thờ tại Di tích 27-7, thoảng trong hư không mùi trầm hương lan toả trong tiếng gió mơn man giữa đất trời, gợi nhớ một niềm thiêng liêng lay động đến tận cùng cảm xúc. Vâng! Một dân tộc trải qua bao gian lao chiến tranh, cả lúc khó khăn nhất vẫn giữ vững tinh thần độc lập dân tộc, tự hào, kiêu hãnh, bền bỉ đi đến tận cùng chiến thắng. Vinh quang lắm mà đau thương cũng nhiều. Sau 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, làm nhiệm vụ quốc tế và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, 92 xã, phường của tỉnh Thái Nguyên có gần 13.000 liệt sĩ, gần 700 người mẹ được vinh danh Mẹ Việt Nam Anh hùng, hơn 10.000 thương binh, gần 15.000 người hoạt động kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học…

“Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa”. Trên dọc dải non sông gấm vóc Việt Nam có địa phương nào không có đài tưởng niệm, nghĩa trang các Anh hùng liệt sĩ. Nước mắt chiến tranh, đau đáu một niềm thương vì đạn lửa. Gần gũi nhớ thương mà cách trở, chỉ có khói hương trầm mặc, lan tỏa lòng biết ơn, tri ân sâu sắc của các thế hệ cháu con đối với người quả cảm. Tôi đã đến nghĩa trang Trường Sơn, cúi đầu trước anh linh Nhà Tưởng niệm liệt sĩ Thái Nguyên - Bắc Kạn. Gần 300 mộ chí con em người Thái Nguyên ngay ngắn thẳng hàng, màu sơn phủ trắng một niềm đau.

Chuyện hôm qua đã lưu vào sử xanh, được nhắc nhớ, tạc lòng, ghi dạ các thế hệ cháu con đời đời. Từng câu chuyện bình dị mà giàu lòng ái quốc của các mẹ, các chị và bao công dân trên vùng đất bên chân núi Tam Đảo đã viết thành một khúc hoan ca đẹp đẽ về truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

Rồi theo dòng chảy thời gian, các thế hệ người Thái Nguyên noi gương nhau gìn giữ thành nếp sống đẹp, cùng đoàn kết, quan tâm thực hiện tốt công tác “Đền ơn đáp nghĩa”. Với các hoạt động thiết thực như xóa nhà tạm; bảo đảm cho gia đình có thành viên là người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân ở cùng khu dân cư; 100% gia đình người có công được lãnh đạo các cấp thăm hỏi, tặng quà động viên nhân các dịp lễ, Tết. Đặc biệt từ hơn 20 năm gần đây tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức cho người có công và thân nhân người có công với cách mạng được điều dưỡng sức khỏe đảm bảo theo quy định của Nhà nước ở ngay trong tỉnh.

Dưới một gốc cây cổ kính ở Trung tâm Điều dưỡng người có công, tôi chứng kiến một nhóm các cựu chiến binh ngồi quây quần bên chiếc bàn đá. Họ say sưa hát bài: “5 anh em trên một chiếc xe tăng”. Vừa hát, vừa đánh nhịp tay lên mặt bàn. Cũng khi ấy tôi nhận ra có người tay không còn đủ ngón, người đi chân giả, người mang nhiều bệnh hiểm vì di chứng chất độc da cam. Họ là những người lính từng tham gia chiến đấu tại các mặt trận phía Nam; làm nhiệm vụ quốc tế ở nước bạn Lào, Campuchia và tham gia chiến đấu bảo vệ từng tấc đất biên cương Tổ quốc.

Chia sẻ với chúng tôi, thương binh Trần Văn Sự, phường Gia Sàng cho biết: Những ngày ở Trung tâm, với tôi mỗi ngày đều vui như Tết. Còn thương binh Mạc Thanh Hải, xã Đại Phúc bộc bạch: Ở đây chúng tôi được chăm sóc chu đáo. Nạn nhân chất độc da cam, ông Hà Huy Toàn, xóm Bồng Lai, xã Điềm Thụy phấn chấn: Đến đây, được gặp lại bạn chiến đấu cũ và cùng chia sẻ kinh nghiệm làm kinh tế gia đình. Ngồi cạnh đó, thương binh Lường Công Mạnh, xóm Cô Dạ, xã Phú Bình chia sẻ: Đây là lần thứ 5 tôi được đi an dưỡng. Mừng nhất là được gặp lại bạn cũ, ôn lại chuyện xưa. Ngồi ăn cơm với nhau như trong nhà hàng sang trọng, trên mâm có rất nhiều món ăn nhưng “thằng nào” cũng nhớ ngày nằm rừng, ăn rau tàu bay, đánh vật với muỗi mòng.

Câu chuyện của các thương binh, bệnh binh, nạn nhân chất độc da cam gợi cho tôi nhớ về An dưỡng đường số 1, số 2 ở xã Đại Từ do các cụ kể lại. Trước năm 1950, an dưỡng đường dành cho thương binh là những ngôi nhà tranh, tre, nứa, lá dựng vội, chưa tiện nghi. Còn nơi điều dưỡng thương binh, bệnh binh, thân nhân người có công ngày nay là một khu điều dưỡng được xây dựng khang trang sạch đẹp kề bên hồ Núi Cốc, thuộc xã Đại Phúc.

Đã có hàng vạn lượt thương binh, nạn nhân chất độc da cam, Mẹ Việt Nam Anh hùng, vợ liệt sĩ về đây nghỉ ngơi an dưỡng và kể cho nhau nghe câu chuyện về một thời lửa đạn chiến tranh, về cuộc sống đổi mới giữa thời bình. Những câu chuyện không đầu, không cuối cứ vu vơ như gió thoảng đưa mây về cuối trời, nhưng đó là quá khứ oanh hùng của bao người chiến sĩ giải phóng, là điểm tựa tinh thần vững chãi để mỗi người vươn lên trong cuộc sống.

Bà Nguyễn Thị Tam, vợ liệt sĩ, xóm Soi, xã Kha Sơn rủ rỉ: Đây là lần đầu tôi đi điều dưỡng. Đêm đầu nằm phòng điều hòa, có đệm trắng sạch sẽ, cán bộ Trung tâm hướng dẫn tỉ mỉ cách sử dụng đồ dùng trong nhà, tối đi ngủ có người đến ghép hộ màn làm tôi cảm động muốn khóc.

Câu nói của bà làm lồng ngực tôi nghẹn lại. Bà là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam mất chồng, mất con vì các cuộc chiến tranh giữ nước, làm nhiệm vụ quốc tế và bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc. Tất cả họ, những người mẹ, người vợ, người con đã và đang lặng lẽ hy sinh hạnh phúc riêng cho đất nước được thanh bình. Bởi thế, họ xứng đáng được Đảng, Nhà nước và mọi người dân tri ân bằng những nghĩa cử thiết thực.

Chiến tranh đã qua đi, nhưng khi gặp những người có công đang thực hiện kỳ nghỉ dưỡng ở Trung tâm, chúng tôi hiểu thấu hơn về nỗi đau mang tên chiến tranh. Có người mất đi một phần cơ thể, người mang mảnh đạn trong đầu, người bị chất độc hóa học gặm nhấm sức khỏe. Ai cũng có thể nhìn thấy đó là thương binh, là nạn nhân chất độc da cam. Nhưng ít ai nhìn thấy những phụ nữ bóng lẻ đêm trường, tần tảo một đời thờ chồng, nuôi con. Cảm thấu được điều đó, nên đội ngũ nhân viên phục vụ tại Trung tâm luôn nỗ lực phục vụ hết mình, với mong muốn không để người có công và thân nhân người có công thêm một gợn buồn trong những ngày được điều dưỡng.

Hằng ngày, các đối tượng an dưỡng được chăm sóc sức khỏe.
Hằng ngày, các đối tượng an dưỡng được chăm sóc sức khỏe.

Từ sân Trung tâm hướng mắt nhìn về phía hồ Núi Cốc, tôi cảm nhận được hơi gió mát lành làm tiết trời tháng Bảy dịu lại. Cũng khi ấy tôi nhận ra chị Bùi Thị Nhung, một trong những cán bộ vào nhận nhiệm vụ tại Trung tâm từ những ngày đầu thành lập. Gần gũi nhiều với đối tượng an dưỡng nên chị thấu hiểu và biết lựa lời động viên phù hợp với tâm tính từng người. Chị kể: Có lần vào bếp ăn, tôi thấy một người mẹ ngồi lặng lẽ, cầm đũa nhìn mâm cơm. Ngỡ thức ăn không phù hợp khẩu vị, tôi lại gần, vừa gặng hỏi thì mẹ òa lên, nức nở: Mẹ ăn làm sao đây khi các con của mẹ không về... Mọi người có mặt nín lặng. Mẹ có 3 người con là liệt sĩ.

Đang những ngày tháng Bảy, tháng để lòng người tri ân, biết ơn những người có công với đất nước. Bởi lẽ ấy vùng đất dưới chân Tam Đảo như ấm áp hơn bởi những dòng người trên mọi miền Tổ quốc theo nhau về địa điểm “khai sinh” Ngày Thương binh - Liệt sĩ, dâng kính nén trầm thơm lên ban thờ các bậc cha anh đã hóa thân vào sử xanh đất nước. Rồi có chút thư thái bên gốc đa cổ kính, nghe người dân địa phương kể cho nghe chuyện một thời an dưỡng đường kháng chiến, và Trung tâm Điều dưỡng người có công bây giờ. Trong đó có câu chuyện hiến đất, hiến nhà, tham gia chăm sóc thương binh. Và câu chuyện tình yêu thủy chung đẹp như huyền thoại từng có ở vùng đất dưới chân Tam Đảo.