Diện mạo văn học đề tài Lực lượng vũ trang và Chiến tranh cách mạng trong dòng chảy văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua

Nguyễn Bình Phương 14:55, 28/07/2025

Nhắc đến thành tựu văn học là nhắc đến vai trò của sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học đó. Và nhắc đến thành quả mà đội ngũ nhà văn trong quân đội đạt được trong nửa thế kỷ qua, kể từ ngày đất nước thống nhất, thì không thể không nhắc đến vai trò tối quan trọng của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bằng tầm nhìn xa, nhìn rộng, bằng sự thấu hiểu bản chất cũng như vai trò, giá trị của văn học, Tổng cục Chính trị đã định hướng cho các nhà văn trong quân ngũ, giúp họ chọn được chỗ đứng đắc địa nhất từ đó phát huy tối đa tài năng sáng tạo của mình để cống hiến cho Tổ quốc. Những tác phẩm của họ đạt chất lượng nghệ thuật cao, đủ sức vóc vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian để trở thành kinh điển, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển văn học Việt Nam ở các giai đoạn tiếp theo.

Một số tác phẩm Văn học về đề tài Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng.
Một số tác phẩm Văn học về đề tài Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng.

Văn học viết về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang, trong nửa thế kỷ qua thực sự là một mạch chủ đạo và đạt nhiều thành tựu. Kết quả đó là sự kết tinh nhiều yếu tố, từ tài năng, tâm huyết của đội ngũ sáng tác, tới công tác quảng bá, tuyên truyền, lan tỏa các tác phẩm đến với công chúng, bạn đọc.

Trong khuôn khổ các hoạt động trọng điểm về văn học suốt 50 năm qua, kể từ ngày thống nhất đất nước, với nhiều hình thức sinh động, hợp lý, như mở trại sáng tác, chương trình đầu tư đặt hàng tác phẩm, tổ chức các cuộc thi, các cuộc vận động sáng tác theo chủ đề, cũng như các hội thảo và quảng bá… đã thực sự tạo đà giúp lực lượng nhà văn cho ra đời nhiều tác phẩm có chất lượng. Và các tác phẩm ấy góp phần làm phong phú, làm đặc sắc thêm cho nền văn học Việt Nam, trong đó có mảng đề tài về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang.

Quan sát một cách tổng thể, ta thấy, chưa bao giờ văn học viết về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang lại dày dặn, lại đa dạng đến mức đặc sắc như từ sau 1975 đến nay. Thành công ấy có được bởi nhiều yếu tố, nhưng phần cốt lõi chính là sự chín muồi về tài năng, về sự thẩm thấu hiện thực, về nhận thức của các tác giả trực tiếp tham gia chiến đấu, tham gia quân ngũ, hoặc đang trong quân ngũ. Còn một phần đáng kể nữa, cũng là do tinh thần cởi mở trong hệ thống chính trị và điều kiện xã hội. Không thể phủ định được rằng lực lượng nhà văn quân đội đóng vai trò hết sức quan trọng trong mảng đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang, vì đấy chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của họ.

Tuy nhiên, đáng mừng hơn, đó là văn học viết về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang không chỉ dừng lại ở thế hệ các nhà văn trực tiếp tham gia, trực tiếp trải qua, mà đã có những lớp nhà văn không qua chiến tranh cũng đam mê viết về đề tài này. Như thế, đồng nghĩa với việc viết về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang không chỉ dừng lại là trả nợ ký ức, không phải chỉ dừng lại ở phản ánh, trình bày những trải nghiệm thực tế của người trong cuộc, mà đã tiến xa hơn, trở thành một đề tài hiển nhiên như mọi đề tài chiêm nghiệm nhân sinh khác mà mọi thế hệ nhà văn quan tâm.

Nhìn từ góc độ vận động xã hội, chúng ta sẽ phần nào thấy rõ hơn giá trị của mảng đề tài này khi nó kiên trì, kiên định theo mạch riêng không bị đứt đoạn. Sau 1975 là thời kỳ đất nước bước vào giai đoạn phức tạp, đa dạng với những tình thế cả trong vận động xã hội lẫn trong nhận thức cá thể. Một đằng là đà quay tiếp của chiến tranh ẩn tàng trong những khó khăn vật chất vì bị tàn phá quá nặng nề, cùng với những ám ảnh tinh thần, một đằng là sự phân tán mục tiêu của cộng đồng dẫn đến những thay đổi, thậm chí là những rạn nứt về quan niệm, nhận thức phía bên trong mỗi cá thể. Trước tình thế đó, với thiên lương của mình, văn học sau ngày thống nhất đất nước, vừa cần mẫn vá lại những vết thương, những rách nát của con người, vừa nghiêm túc mổ xẻ bản chất của chiến tranh để tìm ra bài học kinh nghiệm, lại vừa dìu con người lần hồi tiến về phía trước bằng ánh sáng của tinh thần lạc quan.

Trong sự phát triển ồ ạt của văn học với các trào lưu, các xu hướng hết sức đa dạng, phong phú đó, văn học viết về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang vẫn tiếp tục mạch chảy xuyên suốt với vai trò là một trong những mạch văn học chủ lưu, và trên thực tế đó là mạch có nhiều thành tựu nổi trội nhất.

Nếu phân chia ra theo khu vực và giai đoạn chúng ta sẽ nhận ra có sự khác biệt. Trước tháng 4 năm 1975, văn học về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang tập trung vào sự khích lệ trực tiếp người cầm súng đi tới mục tiêu duy nhất là thống nhất Tổ quốc, và nó trở thành vũ khí chiến trận thực sự. Những tác phẩm giai đoạn này mạnh ở sự giàu cảm xúc và cảm hứng khơi gợi tinh thần lạc quan, gia cố lòng quả cảm trong chiến đấu cho toàn quân, toàn dân. Sau 1975, đặc biệt những năm gần đây, chiến tranh được nhìn nhận bình tĩnh hơn, đa chiều hơn, tính chất của mổ xẻ, nghiền ngẫm, phân tích gia tăng vì thế tạo ra giá trị riêng, giá trị ấy nằm trên nền tảng của sự khách quan, tỉnh táo mà người viết cần phải có.

Vì thế, ta sẽ thấy văn học về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang không chỉ tụng ca người chiến thắng mà còn nói tới những hy sinh, tổn thất của người chiến thắng. Ta sẽ thấy kẻ thù không phải những kẻ quá hèn nhát, quá xuẩn ngốc hay đơn giản, mà cũng hết sức mưu lược, phức tạp, có trí tuệ, có lý tưởng riêng.

Chính sự nhìn nhận mang tính khách quan này cho chúng ta thấu hiểu chiều sâu của chiến tranh, qua đó thấm thía hơn, trân trọng hơn giá trị của chiến thắng và sự thống nhất, vẹn toàn Tổ quốc. Nói một cách thật cụ thể, thì văn học Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang đã minh định tính chính nghĩa không thể tranh cãi về những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hơn thế, đã đưa những cuộc chiến tranh ấy trở thành trang sử bất hoại trong hành trình dựng nước và giữ nước của người Việt.

Khi nói tới vấn đề trung tâm, hiển nhiên phải nói tới nhân vật trung tâm. Vấn đề trung tâm là Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang thì kéo theo đó nhân vật trung tâm không ngoài ai khác, phải là chính anh Bộ đội Cụ Hồ.

Văn học sau 1975 viết về Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang vẫn tiếp tục lấy nhân vật trung tâm là người chiến sĩ làm điểm quy tụ. Tuy nhiên, nhân vật người lính trong những năm gần đây không còn được đẩy lên thành “độc sáng” một chiều theo kiểu thần thánh như giai đoạn trước  năm 1975, mà toả sáng bình dị trong tương quan với các mối quan hệ xung quanh bởi được soi chiếu ở nhiều khía cạnh khác nhau với nhiều trạng thái tâm lí, tình cảm khác nhau.

Điều này không đồng nghĩa với việc giải thiêng anh Bộ đội Cụ Hồ, trái lại còn làm cho Bộ đội Cụ Hồ trở nên sống động hơn, phong phú hơn, sâu sắc và chân thực hơn. Có thể ra một số tác phẩm như: Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Đỉnh máu, Thượng Đức của Nguyễn Bảo, Sông cạn của Dũng Hà, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Đối chiến, Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy, Đường tới thành phố, Trường ca biển, Giao hưởng Điện Biên của Hữu Thỉnh, Chim én bay, Bất chợt mai vàng của Nguyễn Trí Huân, Chạm vào ký ức của Vũ Thị Hồng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Mùa hè giá buốt của Văn Lê, Lính tăng của Nguyễn Bắc Sơn, Miền xa thẳm của Phạm Hoa, Trường ca sư đoàn và Mở bàn tay gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái, Chiến tranh mang khuôn mặt phụ nữ của Phạm Hồ Thu, Lính Hà truyện của Nguyễn Ngọc Tiến, Tiếng vọng đèo Khau Chỉa hồi ức của Nguyễn Thái Long, Từ biên giới Tây Nam đến đất chùa tháp tiểu thuyết của Trần Ngọc Phú, Rừng khộp mùa thay lá truyện của Nguyễn Vũ Điền, Mùa chinh chiến ấy tiểu thuyết của Đoàn Tuấn, Chuyện lính Tây Nam truyện của Trung Sỹ, Đất K truyện của Bùi Quang Lâm...

Có thể khẳng định, từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nửa đầu thế kỷ 21 này, anh Bộ đội Cụ Hồ là nhân vật trung tâm thành công nhất của văn học Việt Nam. Đây là nhân vật hàm chứa không chỉ khí phách, số phận của một giai đoạn, một thời đại, mà còn hàm chứa trong ấy cả phẩm tính truyền thống cốt lõi người Việt với các đặc điểm căn bản: Trí tuệ, lòng quả cảm, sự trung tín và lối ứng xử tình nghĩa. Anh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành nhân vật tiêu biểu và đứng vào hệ thống các mẫu hình nhân vật tiêu biểu nhất của lịch sử xã hội Việt Nam từ trước tới nay. Như thế cũng có nghĩa, quân đội không chỉ đóng góp vào lịch sử oai hùng của dân tộc bằng truyền thống bách chiến bách thắng, mà còn thông qua văn học nghệ thuật, trong đó có văn học của các nhà văn quân đội, đã đóng góp vào sự phát triển của văn hóa Việt Nam nói chung.

Một điểm quan trọng, đó là văn học viết về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang, ở khía cạnh nghệ thuật biểu hiện, có những nét mới so với từng giai đoạn cụ thể, như giai đoạn trước 1975 có nét khác so với giai đoạn văn học chống Pháp và giai đoạn sau 1975 khác với trước 1975, rồi sau Đổi mới có khác với sau 1975. Sự khác nhau đó thể hiện ở bút pháp, hệ thẩm mĩ, nhận thức, quan điểm và hình thức biểu đạt. Có thể thấy sự phát triển cực kỳ mạnh mẽ, quyết liệt trong phương pháp sáng tác văn học sau 1975, đặc biệt từ Đổi mới đến nay qua hàng loạt các tác phẩm tạo hiệu ứng dư luận sâu rộng của Nguyễn Khải, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Xuân Thiều, Chu Lai, Bảo Ninh, Hoàng Đình Quang, Trung Trung Đỉnh, Hữu Thỉnh, Thi Hoàng, Lê Thành Nghị, Vương Trọng, Sương Nguyệt Minh… Ở khía cạnh này, một lần nữa chính các nhà văn quân đội đã cho thấy phẩm chất can đảm sáng tạo của người lính bằng việc hành động tiên phong trong việc đổi mới một cách táo bạo, đầy quyết đoán nhưng cũng đầy trách nhiệm trước nhu cầu đòi hỏi phát triển sáng tạo của văn học viết về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang.

Nhìn lại văn học Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang từ 1975 đến nay, chúng ta không thể không tự hào về đội ngũ các nhà văn quân đội đầy tài năng, tâm đức và quả cảm. Giá trị cống hiến của đội ngũ ấy được ghi nhận qua việc hàng chục nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và hàng chục người  được vinh dự đặt tên đường, tên phố.  

Hiện nay, với các yêu cầu nhiệm vụ mới, vai trò, vị trí của lực lượng vũ trang cũng như hình ảnh và phẩm chất của anh Bộ đội Cụ Hồ đã có những biến chuyển, vì thế đòi hỏi một cảm quan nghệ thuật mới phù hợp hơn để khắc hoạ cho chính xác. Và trên thực tế, đang hình thành một diện mạo văn học mới viết về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang từ thế hệ các nhà văn trẻ trong quân đội và cả ngoài quân đội.

Chỉ riêng ở mảng trường ca và thể loại ký văn học, ta đã thấy hàng loạt tác phẩm có chất lượng của các cây bút trẻ trưởng thành trong thời bình: Tâm tình lính biển nhắn với chim hải âu ký văn học của Nguyễn Mạnh Thường, Biên khu Việt Quế tiểu thuyết của Phạm Vân Anh, Tôi đi Trường Sa ký văn học của Đinh Phương, Sóng trầm biển dựng trường ca của Đoàn Văn Mật, Nước non mặt biển trường ca của Nguyễn Quang Hưng, Mùa tân binh của Uông Triều, Trường Sa trong mắt trong ký văn học của Nguyễn Mạnh Hùng, Lòng tôi biên giới trường ca của Nguyễn Minh Cường, Khói biên phương tập truyện ngắn của Lê Quang Trạng, Lặng yên sau cơn mưa tập truyện ngắn của Trần Thị Tú Ngọc, Ngang qua bình minh trường ca của Lữ Mai, Những vì sao biên giới của Nguyễn Xuân Thủy…

Qua các sáng tác của các nhà văn trẻ tài năng, có thể thấy hình ảnh anh Bộ đội Cụ Hồ vẫn đang ở lại với vị trí là một trong những nhân vật trung tâm, nhưng ở ý thức nghệ thuật khác, cởi mở, đa chiều, phù hợp với tinh thần thời đại mới.

Tuy nhiên, càng ngày mạch văn học Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang càng phải đối diện với những thách thức của thời cuộc như sự phân tán của các vấn đề trung tâm trong xu thế vận động phát triển xã hội toàn diện, dẫn tới sự phân tán về các mẫu nhân vật trung tâm. Mặt khác, các nhà văn qua chiến tranh đã có tuổi, sức sáng tạo giảm sút, còn nhà văn trẻ  vốn đã khan hiếm, lại bị hạn chế vốn sống, vốn trải nghiệm thực tế nên dẫn đến sự giảm sút, hẫng hụt đội ngũ sáng tác văn học trong quân ngũ. Đây là những thách thức lớn, rất căn bản.

Để mạch văn học về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang được duy trì và phát triển, đòi hỏi cần nhiều sự quan tâm, đầu tư thích đáng mang tính chiến lược. Trong đó cần đến sự quy hoạch có chiều sâu và dài hạn trong việc chủ động đào tạo nguồn nhân lực sáng tác trong quân đội. Thứ hai, cần quan tâm tốt hơn nữa đến việc tạo điều kiện cho đội ngũ các nhà văn hiện đang trong quân ngũ, đặc biệt cần có cơ chế, chính sách đặc thù để họ phát huy được tài năng một cách triệt để nhất từ đó gắn bó lâu dài với quân đội. Thứ ba cần sự đầu tư nhất định trong việc quảng bá, phát hành và lan tỏa tác phẩm văn học Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang có giá trị tới công chúng, không chỉ trong quân đội mà ra với độc giả cả nước, và không chỉ với độc giả trong nước mà còn ở nước ngoài thông qua việc giới thiệu dịch và chủ động dịch. Khi giới thiệu một tác phẩm văn học có chất lượng về đề tài Chiến tranh cách mạng và Lực lượng vũ trang ra với độc giả quốc tế, cũng đồng nghĩa với việc quảng bá về sức mạnh truyền thống của Quân đội Nhân dân Việt Nam.