Từ "Tổ quốc" của Nguyễn Hữu Quý vang vọng âm hưởng hùng ca đưa người đọc đi qua một hành trình – từ chiến tranh đến hòa bình, từ nỗi nhớ đến niềm tin son sắt, đến “Chảy bằng tiếng gọi” của Lữ Mai thấm đẫm chất bi tráng nơi Thành cổ Quảng Trị. Những câu thơ của Tô Hoàn, Đinh Hạ, Nguyễn Văn Song, Phan Đại Duy… là những nén hương lòng rưng rưng trước anh linh các anh hùng liệt sĩ. “Thư gửi người còn sống” của Quách Mộc Ngôn – một bản “thi thư” gửi hậu thế, nhắc nhở về ký ức không thể lãng quên. Còn “Viết ở trại thương binh” (Trần Văn Lợi) và “Ống áo bạc sương” (Lã Thị Thông) lại ngợi ca nghị lực sống và vẻ đẹp tinh thần của người lính trở về.
Không hào nhoáng, không lên gân, những bài thơ viết bằng cảm xúc thật, trải nghiệm thật, từ những người lính, người mẹ, người ở lại và cả người ra đi.
Trang thơ mở ra một không gian hoài niệm, tri ân và lay thức tâm hồn – nơi quá khứ không ngủ yên mà lặng lẽ soi chiếu vào hôm nay bằng ánh sáng của sự hy sinh và phẩm giá.
(Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh chọn và giới thiệu)
Nguyễn Hữu Quý
Tổ quốc
Tôi thương từng ngọn gió hoà bình
thổi qua những dòng sông màu lửa
áo lính sang đò rụt rè về gõ cửa
trong mơ hồ bật dậy tiếng "Mẹ ơi!"
Đêm trôi vào những giấc mơ xa xôi
mẹ trở giấc giật mình mùa gặt dở
mùi gạo mới châng lâng thơm đầu ngõ
cánh đồng làng nức nở ôm con!
Tổ quốc, tôi gọi tên từ những bàn chân
giữa trùng điệp hoá linh hồn của đá
mãi mãi ngân vang trong bước đi của gió
ngàn năm, ngàn năm, ngàn năm, ngàn năm...
Tổ quốc vẽ mặt trăng rằm
bằng những dòng sông khuyết
vành vạnh phù sa nâng cây đàn nguyệt
lẫy lên cung bổng cung trầm
Nhân dân ta gót sạn vai bầm
tin nguồn cội nên tìm về Đất Tổ
xoan vẫn tím tháng Ba như hằng nhớ
chim Lạc bay qua Nghĩa Lĩnh muôn đời
Tổ quốc mái tranh, võng đay, chiếu cói
thời anh yêu em thư viết bút Trường Sơn
mực Cửu Long dòng tâm tình sóng gợn
ta lấy non sông làm điểm tựa tâm hồn
Ta vời vợi trong bao la nắng sớm
ngắm Tổ quốc phấp phới Trường Sa
thương lắm Hoàng Sa chưa về với Mẹ
Tổ quốc, niềm đau đâu dễ nói thành lời!
Ta trồng cây cho chim về xây tổ mới
nâng niu bình yên trong mỗi tiếng hót lành
Tổ quốc, tôi nghe trong mỗi làn mây trắng
bay qua nẻo làng thấp thoáng bóng thời gian...
![]() |
Lữ Mai
Chảy bằng tiếng gọi
Trong cơn mơ cờ lau Quảng Trị…
Sông chảy bằng tiếng gọi người xưa
mẹ ru con ngọt lời trăng trối
gió thành cổ bóng hình áo vải
mỗi bước một lần nhớ tên ai
buốt bờ Hiền Lương
máu nhỏ cờ lau xứ cát
gạch toác đêm bom nổ vội
mọi giấc mơ đều vướng mảnh xương trồi
sông cắt đôi tang trắng
em qua cầu, chưa kịp gọi, đã xa
người nằm xuống nơi này không có tuổi
hàng cây thay lời gọi hồn xanh
chín trăm chín mươi bậc đá
không vắt lên trời mà bổi hổi lòng dân
gió Quảng Trị nơi hồi sinh tiếng đất
trong vết bom nở hoa tím không ngờ
thiếu nữ gánh rau ra chợ sớm nhìn lên
rơm rớm
sắc cờ.
![]() |
Tô Hoàn
Gọi bạn Trường Sơn
(Viết cho Tuất )
Bao lần về chốn rừng xưa
Mình đi tìm bạn nắng mưa bã bời
Tuất ơi! Ơi Tuất! Tuất ơi!
Sao không nghe lấy những lời của nhau?
Tuất nằm đâu? Tuất ở đâu?
Trời thì cao, đất thì sâu quá chừng
Trường Sơn tứ phía mịt mùng
Gió hoang cùng với cây rừng bủa vây.
Ước mơ một thuở đang đầy
Bỗng dưng cơn sốt biến ngày thành đêm
Nhạt nhoà cả tấm hình em
Bao lời mẹ dặn Tuất quên hết rồi.
Cánh rừng rung vã mồ hôi
Hay là cơn sốt suốt thời chiến tranh
Vết đau vá mãi chưa lành
Tuất thành cây cỏ vô danh giữa rừng.
Trường Sơn vẫn những trập trùng
Tuất ơi! Mình gọi… Rưng rưng bóng chiều.
![]() |
Đinh Hạ
Vọng khúc biển
Vòng hoa gửi sóng cuốn đi
Tế linh khấn thỉnh thầm thì cầu mong
Nỗi đau mặn phía biển Đông
Khắc bia mộ gió vào trong tim người.
Xưa lời ru mẹ chia đôi
Nửa phần máu thịt ngoài khơi đất mình
Thuyền nan vời vợi hành trình
Chắn che sóng dữ trung trinh lời thề.
Phu binh bó chiếu đòn tre
Thuở nào cưỡi sóng đi về đảo xa
Máu đào thấm đỏ Gạc Ma
Thuở nào hiệu triệu bài ca ngăn thù.
Khói hương phảng phất ưu tư
Tuổi xanh dựng mốc bao giờ bình yên
Giữ thềm lục địa thiêng liêng
Đâu cần sử sách lưu tên tượng đài
Câu thề vẫn trĩu nặng vai
Biển khơi đóng cọc vành đai trường thành
Nghìn năm xương máu vô danh
Lời ru thăm thẳm viền quanh bãi bờ.
![]() |
Nguyễn Văn Song
Cỏ thơm
Nghĩa trang tháng Bảy khói sương
Muôn ngàn ngọn cỏ tỏa hương giữa trời
Bao nhiêu cỏ bấy nhiêu đời
Nhắn gì mà cứ xanh rời rợi xanh
Cỏ hay là bác, là anh
Trộn xương, hoà máu làm thành nước non?
Đá kia nước chảy cũng mòn
Nghĩa trang mưa nắng cỏ còn thiên thu
Tôi nghe có tiếng cỏ ru
Rì rầm trong gió ngỡ như rất gần
Lời ru hay nỗi thương thầm
Phía làng mẹ đứng tần ngần đợi mong?
Cỏ xanh thơm đến mênh mông
Tôi ngồi với cỏ thấy lòng ấm lên
Cỏ thơm như vạn ngôi đền
Giữ gìn cho đất một miền yêu thương
Nghĩa trang tháng Bảy khói sương
Ai về có thấy dậy hương đất này?
Xin nâng thật nhẹ gót giày
Lắng nghe hồn cỏ thơm bay giữa đời.
![]() |
Phan Đại Duy
Viết về các anh
Tôi gặp một người lính
Trên ngực không còn huy chương
Chỉ còn một vết sẹo
Dài như chiều dài của biên giới
Và im lặng như một lời thề
Chưa từng được nói ra.
Họ không đòi hỏi
Hoa, trống, hay diễn văn
Chỉ mong giấc ngủ đêm nay không bị đánh thức
Bởi tiếng nổ trong ký ức
Vẫn chưa chịu ngừng vang.
Tổ quốc
Không chỉ là bản đồ có viền đỏ
Mà là những buổi sáng
Họ đứng giữa ranh giới
Giữa sống và không sống
Với một khẩu súng lạnh hơn lòng người
Nhưng nóng hơn nỗi sợ.
Họ đã từng yêu
Một người con gái
Không đủ can đảm chờ hết nhiệm kỳ biên cương
Họ đã từng uống
Nước giếng mùa khô
Mặn như giọt mồ hôi rơi xuống đất.
Không ai nhớ tên họ
Trong các buổi lễ
Nhưng đất nhớ
Bởi khi đi qua rừng
Cây nghiêng đầu chào họ
Bằng dáng mọc cong về phía hoàng hôn.
![]() |
Quách Mộc Ngôn
Thư gửi người còn sống
(Tưởng nhớ Trung đội "Ký Con", Trung đoàn Bình Giã)
Phiến thu, phiến thu…
rụng đầy năm tháng
ngạt ngào rừng phả những chồi non
như phong thư cuộn tròn
gửi người còn sống
nắng đòng đưa cánh võng
rầm rập những bàn chân
tiếp bước người xưa đi mở cõi
một tấc không đi
một li không rời
bỏ mùa ve lỗi nhịp
mùa phượng nhàu khét
ngùn ngụt rừng khói đen ngòm
phiến thu lăn vòng
luân hồi phận lá
rừng phả những chồi non
chim say mùa quả ngọt
nhành lan trắng bên vách đá thì thầm
xanh đất
xanh trời
xanh mãi tuổi hai mươi
những phong thư tròn cuộn
đòng đưa cánh võng
gửi người còn sống hôm nay.
![]() |
Trần Văn Lợi
Viết ở trại thương binh
Có người thì hỏng mắt
Có người mất cánh tay
Xe lăn về họp mặt
Cùng nạng gỗ sum vầy.
Dẫu tàn nhưng không phế
Sống quây lại thành làng
Mở xưởng đóng bàn ghế
Tiếng chạm trổ vang vang.
Vẫn gọi nhau: Đồng chí!
Quý nhau trong một nhà
Lúc nhớ chiến trường cũ
Lại bần thần trông xa…
Khi trở trời trái gió
Lại đau buốt khắp mình
Vẫn còn bao chuyện kể
Cho lớp lớp học sinh.
Làng của người thương tật
Mà yêu thương thật lành
Sau đạn bom khói lửa
Mầm sống vẫn tươi xanh...
![]() |
Lã Thị Thông
Ống áo bạc sương
Người thương binh làm thơ
Với một bàn tay đăm chiêu mắt tìm về xa thẳm
Ống tay áo một bên
Thắt lại nhói đau bao khắc khoải âm thầm
Người thương binh làm thơ
Viết về cỏ cây viết về tuổi mơ ngắn ngủi
Những ngày đợi nhau đi học
Lưng mẹ còng trong đục một dòng sông
Nét bút xê dịch trên những ngọn đồi những cánh rừng cháy lửa
Câu chữ oằn mình chớp bom nào xé toạc màn đêm
Về ngôi mộ cuối rừng vết thương từng lần tái phát
Vòng tròn ký ức không có tên mình
Người thương binh làm thơ
Viết về hôm nay, ngày mai dưới ánh mặt trời gieo chữ
Dòng sông của mẹ đục trong mùa cũ từng những tên cầu mới xây
Bài đồng ca trường làng vút ngân từ ngàn bông hoa trong suốt
Người thương binh làm thơ bằng cánh tay còn lại
Giữ mùa xuân trong ống áo bạc sương.















Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin