Triệu phú kiểu mẫu

Oscar Wilde. Kỳ Hoàng dịch 16:06, 29/07/2025

Oscar Wilde (1854– - 1900) là một nhà văn, nhà viết kịch và nhà phê bình nổi tiếng người Ireland, được biết đến với lối văn châm biếm sắc sảo, trí tuệ hài hước và cái nhìn sâu sắc về xã hội. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là tiểu thuyết “Chân dung Dorian Gray” (1890) và vở kịch “Tầm quan trọng của việc nghiêm túc”. Ngoài ra ông còn sáng tác nhiều truyện ngắn đặc sắc. Oscar Wilde là một trong những nhân vật trung tâm của phong trào duy mỹ (Aestheticism), đề cao nghệ thuật vị nghệ thuật.

“Triệu phú kiểu mẫu” (The Model Millionaire, 1887) là một truyện ngắn nhẹ nhàng, hài hước và giàu tính nhân văn của Oscar Wilde. Tác phẩm kể về Hughie Erskine, một chàng trai trẻ đẹp nhưng nghèo khổ, vô tình giúp đỡ một “lão ăn mày” mà không biết đó là một trong những triệu phú giàu nhất châu Âu. Truyện kết thúc bằng một cú “lật ngược” bất ngờ và đầy cảm động, qua đó Oscar Wilde khéo léo phê phán những định kiến xã hội về địa vị, giàu nghèo, đồng thời đề cao lòng tốt và sự chân thành trong một thế giới thực dụng.

Minh họa: Đào Tuấn

Trừ phi bạn giàu có, bằng không thì việc trở thành một chàng trai dễ thương cũng chẳng ích gì. Lãng mạn là đặc quyền của người giàu, chứ không phải là đức tính của kẻ thất nghiệp. Người nghèo thì nên sống thực tế và tầm thường. Có một nguồn thu nhập ổn định vẫn hơn là phải đi quyến rũ người khác để kiếm tiền. Đó là những chân lý vĩ đại của đời sống hiện đại mà Hughie Erskine chẳng bao giờ nhận ra.

Tội nghiệp Hughie! Phải thừa nhận rằng về mặt trí tuệ, anh không mấy nổi bật. Suốt đời, anh chưa từng thốt ra một câu nói chói sáng hay thậm chí là hiểm độc nào. Nhưng bù lại, anh có ngoại hình cực kỳ thu hút, mái tóc nâu xoăn gọn gàng, nét mặt thanh tú, đôi mắt xám sáng. Anh được đàn ông yêu mến chẳng kém gì phụ nữ, và có đủ mọi tài năng, ngoại trừ khả năng kiếm tiền.

Cha anh để lại cho anh một thanh kiếm kỵ binh và bộ “Lịch sử chiến tranh bán đảo” gồm mười lăm tập. Hughie treo thanh kiếm lên gương soi, còn mấy cuốn sách thì đặt trên kệ, chen giữa “Sổ tay Ruff” và “Tạp chí Bailey” và sống dựa vào khoản trợ cấp hai trăm bảng mỗi năm từ một bà cô già.

Anh từng thử làm đủ nghề. Đã từng làm việc tại Sở Giao dịch Chứng khoán trong sáu tháng, nhưng một con bướm thì có thể làm gì giữa bầy bò tót và gấu? Anh cũng từng buôn trà trong một thời gian dài hơn, nhưng chẳng bao lâu thì phát chán với cả các loại trà Pekoe lẫn Souchong. Sau đó anh thử bán rượu Sherry khô. Việc ấy cũng chẳng đâu vào đâu, rượu thì khô quá. Cuối cùng, anh chẳng làm gì cả, chỉ trở thành một chàng trai dễ mến, vô tích sự, với một khuôn mặt hoàn hảo và không nghề nghiệp.

Tệ hơn nữa, anh lại đang yêu. Cô gái mà anh yêu là Laura Merton, con gái một ông đại tá đã về hưu, người từng đánh mất cả tính khí lẫn hệ tiêu hóa ở Ấn Độ và chẳng bao giờ tìm lại được thứ gì trong số đó. Laura yêu anh tha thiết, còn anh thì sẵn sàng hôn cả dây giày của cô. Họ là cặp đôi đẹp nhất ở London, nhưng không có lấy một đồng xu dính túi.

Ông đại tá rất quý Hughie, nhưng không đời nào chấp nhận chuyện đính hôn. “Cứ kiếm được mười ngàn bảng đi đã, con trai, rồi hãy đến nói chuyện với ta,” ông vẫn thường nói như thế. Và những ngày đó, Hughie buồn rười rượi, phải tìm đến Laura để được an ủi.

Một buổi sáng, trên đường đến Holland Park, nơi gia đình Merton sinh sống, Hughie ghé qua thăm người bạn thân là Alan Trevor. Trevor là họa sĩ. Mà thời nay thì mấy ai thoát khỏi cái nghề đó. Nhưng đồng thời, anh ta cũng là một nghệ sĩ đích thực, một điều khá hiếm hoi. Cá nhân Trevor là một người thô kệch, mặt đầy tàn nhang, bộ râu đỏ rối bù. Tuy nhiên, khi cầm cọ lên, anh là một bậc thầy thực thụ và tranh của anh luôn được săn đón ráo riết.

Ban đầu Trevor bị thu hút bởi Hughie hoàn toàn vì vẻ ngoài lôi cuốn của anh ta. “Họa sĩ chỉ nên quen những người ngu ngơ mà xinh đẹp”, Trevor từng nói thế. “Những người khiến ta sướng mắt khi nhìn và nhẹ đầu khi nói chuyện. Những gã công tử và các cô kiều nữ là người cai trị thế giới này, ít nhất thì họ nên như vậy”. Dần dà, sau khi quen biết lâu hơn, Trevor càng quý Hughie vì tính cách hoạt bát, cởi mở và tấm lòng hào phóng, bất cần của anh, đến nỗi cho phép anh ra vào xưởng vẽ bất kỳ lúc nào.

Khi Hughie bước vào, anh thấy Trevor đang hoàn thiện những nét cuối cùng cho một bức tranh khổ lớn vẽ một lão ăn mày. Chính lão ăn mày ấy đang đứng trên một bục cao ở góc xưởng vẽ. Lão là một ông già nhỏ thó, gương mặt nhăn nheo như giấy da, mang một vẻ khổ sở vô cùng.

Trên vai lão vắt một chiếc áo choàng thô màu nâu, rách nát tả tơi; đôi ủng dày của lão thì chắp vá tùm lum, một tay chống cây gậy gỗ thô, tay kia chìa chiếc mũ nát ra xin bố thí.

“Người mẫu thật đáng kinh ngạc!” Hughie thì thầm khi bắt tay bạn mình.

“Người mẫu đáng kinh ngạc á?” Trevor hét lên như thể không tin nổi tai mình. “Phải rồi! Những lão ăn mày như thế không phải ngày nào cũng gặp được đâu. Một phát hiện đấy, anh bạn yêu quý à, một Velazquez  sống! Trời ơi, Rembrandt  mà khắc họa ông ta chắc là ra kiệt tác mất!”

“Tội nghiệp ông già”! Hughie nói, “trông ông ta khốn khổ quá! Nhưng tớ đoán với tụi họa sĩ các cậu thì khuôn mặt ấy chính là gia tài phải không”?

“Dĩ nhiên rồi,” Trevor đáp. “Cậu đâu có muốn một lão ăn mày trông hớn hở, đúng không”?

“Người mẫu được trả bao nhiêu tiền một buổi ngồi vậy”? Hughie hỏi, trong lúc tìm một chỗ ngồi êm ái trên chiếc đi văng.

“Một shilling một giờ”.

“Còn cậu thì được bao nhiêu cho bức tranh này, Alan”?

“Ồ, bức này tớ được hai nghìn”!

“Bảng à”?

“Guinea. Họa sĩ, thi sĩ và bác sĩ lúc nào cũng được trả bằng guinea ”.

“Vậy thì tớ nghĩ người mẫu cũng nên được chia phần trăm chứ,” Hughie bật cười. “Họ làm việc vất vả chẳng kém gì cậu”.

“Vớ vẩn! Này, chỉ riêng công việc pha màu và đứng suốt ngày bên giá vẽ đã đủ mệt rồi. Nói thì dễ lắm, Hughie à, nhưng tớ cam đoan với cậu có những lúc nghệ thuật gần như chạm tới tầm... lao động chân tay đấy! Nhưng mà đừng lải nhải nữa, tớ đang rất bận. Hút thuốc đi và ngồi yên cho tớ nhờ”.

Một lúc sau, người hầu bước vào, báo với Trevor rằng người đóng khung tranh muốn gặp anh.

“Đừng chuồn đấy, Hughie,” anh nói, “tớ đi một lát rồi quay lại ngay”.

Lão ăn mày già tranh thủ lúc Trevor vắng mặt để ngồi nghỉ trên một chiếc ghế gỗ đặt phía sau. Lão trông khốn khổ đến mức Hughie không nén nổi lòng thương, bèn thò tay vào túi xem còn bao nhiêu tiền. Tất cả những gì anh tìm được là một đồng sovereign  và mấy đồng tiền lẻ. “Tội nghiệp ông lão”, anh thầm nghĩ, “ông ấy cần nó hơn mình, dù có nghĩa là hai tuần tới mình không được đi xe thuê”. Rồi anh bước sang phía lão, lặng lẽ đặt đồng sovereign vào tay lão ăn mày.

Lão giật mình, một nụ cười mỏng lướt qua đôi môi nhăn nheo.

“Cảm ơn ngài, thưa ngài,” lão nói khẽ. “Cảm ơn”.

Ngay lúc đó Trevor quay trở lại và Hughie cáo từ, mặt đỏ bừng vì việc mình vừa làm. Anh dành cả ngày bên Laura, bị cô mắng yêu vì tính hào phóng quá mức và phải đi bộ về nhà.

Tối hôm đó, khoảng mười một giờ, anh lững thững bước vào Câu lạc bộ Palette và thấy Trevor đang ngồi một mình trong phòng hút thuốc, nhấm nháp ly vang trắng và nước soda.

“Này Alan, cậu có hoàn thành bức tranh ổn thỏa không”? anh hỏi, vừa châm thuốc.

“Hoàn thành và đóng khung rồi, anh bạn”! Trevor đáp. “Mà này, cậu vừa chinh phục được một người đấy. Lão người mẫu hôm nay quý mến cậu lắm. Tớ phải kể hết với lão về cậu, cậu là ai, sống ở đâu, thu nhập thế nào, tương lai ra sao…”.

“Lạy Chúa, Alan,” Hughie kêu lên, “thế thì khi tớ về nhà chắc ông ta đang chờ ngoài cửa mất! Nhưng mà tất nhiên cậu đùa thôi. Tội nghiệp lão già! Tớ ước mình có thể làm gì đó cho lão. Thật kinh khủng khi có ai đó sống khốn khổ như vậy. Ở nhà tớ còn cả đống quần áo cũ, cậu nghĩ lão có cần không? Áo quần lão rách đến mức sắp rơi ra từng mảnh rồi”.

“Nhưng lão mặc thế mới đẹp chứ,” Trevor nói. “Tớ chẳng đời nào vẽ lão trong áo đuôi tôm đâu”. “Những gì cậu gọi là giẻ rách, thì tớ gọi là lãng mạn. Điều cậu xem là nghèo khổ, đối với tớ lại là sự nên thơ”. Trevor nhún vai. “Tuy nhiên, tớ sẽ nói lại với lão về lời đề nghị của cậu”.

“Alan,” Hughie nói một cách nghiêm túc, “các cậu, giới họa sĩ ấy, đúng là vô tâm”.

“Trái tim của nghệ sĩ là cái đầu của họ”, Trevor đáp. “Vả lại, công việc của chúng tớ là tái hiện thế giới theo cách chúng tớ thấy nó, chứ không phải là cải tạo nó theo cách chúng tớ biết. Ai làm việc nấy. Thôi, giờ kể tớ nghe Laura thế nào rồi. Ông già người mẫu khá quan tâm đến cô ấy đấy”.

“Cậu đừng nói là cậu đã kể cho lão nghe về cô ấy đấy nhé”? Hughie giật mình hỏi.

“Chắc chắn rồi. Lão biết hết về ông đại tá nghiêm khắc, nàng Laura xinh đẹp, và khoản tiền mười ngàn bảng yêu cầu kia”.

“Cậu kể hết chuyện riêng tư của tớ cho lão ăn mày đó á”? Hughie hét lên, mặt đỏ bừng vì tức giận.

“Anh bạn thân mến”, Trevor mỉm cười nói, “lão ăn mày mà cậu nói đó là một trong những người giàu nhất châu Âu. Lão có thể mua cả thành phố London vào ngày mai mà chẳng cần thấu chi tài khoản. Lão có nhà ở mọi thủ đô, ăn bằng đĩa vàng, và thậm chí có thể ngăn nước Nga tuyên chiến nếu muốn”.

“Trời đất cậu đang nói gì thế”? Hughie sửng sốt thốt lên.

“Tớ nói đúng đấy,” Trevor đáp. “Ông già cậu gặp hôm nay ở xưởng vẽ chính là Nam tước Hausberg. Ổng là một người bạn thân của tớ, mua hết tranh của tớ và đặt hàng bức tranh này từ một tháng trước, muốn tớ vẽ chân dung ông ấy trong hình hài một lão ăn mày. Sở thích lập dị của một triệu phú thôi mà! Và tớ phải nói là ông ấy trông thật tuyệt trong bộ đồ rách. Nói đúng hơn là bộ đồ rách đó chính là của tớ; tớ mua từ hồi còn ở Tây Ban Nha”.

“Nam tước Hausberg”! Hughie kêu lên. “Trời ơi! Tớ đã đưa cho ông ấy một đồng sovereign”! rồi anh ngồi phịch xuống ghế, trông như thể trời sập.

“Đưa cho ông ấy một đồng sovereign à”? Trevor la lên, rồi phá lên cười nắc nẻ. “Trời ơi anh bạn, cậu sẽ không bao giờ lấy lại được đâu. Chuyện của ổng là... lấy tiền của người khác mà”!

“Tớ nghĩ là cậu nên nói cho tớ biết sớm hơn, Alan”, Hughie phụng phịu, “chứ không thì tớ đã không làm trò ngốc đến vậy”.

“Thì này Hughie”, Trevor nói, “tớ đâu có ngờ cậu lại vung tiền bố thí kiểu đó. Tớ có thể hiểu nếu cậu hôn một người mẫu xinh đẹp, nhưng đưa đồng sovereign cho một ông già xấu xí thì… trời đất ơi, thật không thể tin được! Vả lại, hôm nay tớ cũng chẳng định tiếp ai cả; lúc cậu đến, tớ còn chưa chắc Nam tước Hausberg có muốn lộ danh tính hay không vì lúc ấy ổng đâu có ăn mặc đúng kiểu”.

“Chắc ông ấy nghĩ tớ là thằng đại ngốc,” Hughie rên rỉ.

“Không hề. Sau khi cậu đi, ông ấy vui như Tết ấy. Cứ cười tủm tỉm, xoa tay rôm rốp. Lúc đó tớ chẳng hiểu sao ổng lại quan tâm đến cậu thế, nhưng giờ thì rõ rồi. Ông ấy sẽ đầu tư đồng sovereign của cậu, trả lãi sáu tháng một lần và có một câu chuyện hay để kể trong các buổi tiệc tối”!

 

“Tớ đúng là đồ xui xẻo”, Hughie càu nhàu. “Tốt nhất là đi ngủ thôi. Và Alan này, cậu đừng kể chuyện này cho ai nhé. Tớ không dám ló mặt ra ở khu Row này nữa đâu”. “Vớ vẩn! Câu chuyện đó là minh chứng tuyệt vời cho tinh thần nhân đạo của cậu đấy, Hughie. Mà ở lại đi. Hút thêm điếu thuốc rồi nói chuyện Laura cũng được mà”.

Nhưng Hughie không chịu ở lại, lủi thủi đi bộ về nhà, lòng đầy phiền muộn, để lại Trevor vẫn còn đang cười nghiêng ngả.

Sáng hôm sau, trong lúc Hughie đang ăn sáng, người hầu mang lên một tấm danh thiếp, trên đó ghi:

“Monsieur Gustave Naudin, de la part de M. le Baron Hausberg.” (Ngài Gustave Naudin, theo lời giới thiệu của Nam tước Hausberg).

“Chắc ông ấy đến để đòi xin lỗi đây,” Hughie thầm nghĩ, rồi bảo người hầu đưa khách lên.

Một quý ông lớn tuổi, đeo kính gọng vàng, tóc bạc, bước vào phòng và cất giọng với chút âm sắc Pháp:

“Xin hỏi tôi có vinh dự được gặp ngài Hughie Erskine không”?

Hughie cúi đầu chào.

“Tôi đến thay mặt Nam tước Hausberg”, ông tiếp tục. “Ngài Nam tước…”

“Tôi xin ông hãy thay tôi gửi lời xin lỗi chân thành nhất đến ngài ấy,” Hughie lắp bắp nói.

“Ngài Nam tước,” ông lão mỉm cười nói, “đã ủy thác cho tôi mang đến ngài bức thư này.” Rồi ông đưa ra một phong thư dán kín.

Bên ngoài thư có dòng chữ:

“Quà cưới gửi đến Hughie Erskine và Laura Merton – từ một lão ăn mày già”.

Bên trong là một tấm séc trị giá mười ngàn bảng Anh.

Khi Hughie và Laura làm lễ thành hôn, Alan Trevor là phù rể, còn Nam tước Hausberg đã phát biểu tại tiệc cưới.

“Những người mẫu là triệu phú,” Alan nói, “đã hiếm lắm rồi; nhưng lạy Chúa, triệu phú kiểu mẫu thì còn hiếm hơn nhiều”!