Tôi đã đọc Vi Hồng từ những năm cuối thập kỉ 60 của thế kỉ trước nhưng chưa được tiếp xúc với anh. Có lẽ hồi đó Vi Hồng viết chưa nhiều nên tôi cũng chỉ có trong tay vài ba truyện ngắn của anh. Nhưng ngày ấy, chỉ cần dăm ba tác phẩm như vậy cũng đã có thể mang lại tiếng tăm cho người viết. Cuối năm 1971, thật bất ngờ, Vi Hồng và tôi cùng được giải truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn. Hôm lĩnh giải, biết tôi người cùng tỉnh, Vi Hồng đến ngồi cạnh. Đó là một cử chỉ rất nhỏ nhưng lúc ấy với tôi lại như một đặc ân.
Hồi đó, tôi đang là anh giáo ở một trường làng xa xôi hẻo lánh mà lại về tận Thủ đô, ngồi cạnh những nhà văn nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Khải, không… chết ngất là may. Được Vi Hồng ngồi “trấn an” bên cạnh thì quả cũng có phần yên tâm hơn.
Sau ngày dự lễ trao giải, tôi và Vi Hồng trở thành đôi bạn vong niên. Nghe nói Vi Hồng không phải là người dễ tính trong quan hệ bạn bè, đặc biệt là những người đến vì mục đích văn chương. Nhưng đối với tôi, Vi Hồng lại có sự cư xử rất thoải mái và cởi mở khác hẳn với mọi người. Có lẽ do anh thấy tôi cũng có vẻ đồng cảnh, nghĩa là nhiều vất vả trên đường đời nhưng lại rất say mê văn chương chăng?
![]() |
| Tác giả (bên trái) và nhà văn Vi Hồng (Ảnh chụp tại đồi thông Vân Dương, Phổ Yên năm 1982). |
Kể từ ngày ấy, in ấn được gì Vi Hồng đều tặng tôi. Về phía mình, tuy biết lối viết của tôi và anh hoàn toàn khác biệt nhưng trong thâm tâm tôi luôn coi anh là người anh trong văn nghiệp.
Về đời tư, đặc biệt là về đời văn, Vi Hồng vất vả đủ đường. Nếu người không biết sẽ tưởng Vi Hồng là một nhà văn luôn thuận thảo, suôn sẻ. Ngược lại, đời sáng tác của Vi Hồng vô cùng gập ghềnh, nếu không muốn nói là có lúc tưởng như “không còn đường về quê mẹ”. Cách đây hơn năm mươi năm, Vi Hồng có tặng tôi một tập truyện ngắn in chung với vài tác giả khác. Tôi đã đọc phần truyện của anh một cách kĩ lưỡng và thích thú bởi giọng văn đẹp, đầm ấm và đặc biệt là nguồn văn hoá dân gian Tày - Nùng được anh đưa vào tác phẩm một cách nhuần nhuyễn (sau này có nhà nghiên cứu đã cho rằng đó là phong cách hiện đại hoá dân gian). Gặp nhau, tôi bày tỏ lòng khâm phục và chúc mừng sự thành công của tác giả. Tưởng anh phấn khởi, nào ngờ nét mặt anh rầu rầu: “Tôi đang bị cạo vì tập truyện ngắn ấy đấy”. Nghe anh giải thích tôi mới hiểu thì ra anh bị một vài người có thế lực nào đó ở Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Việt Bắc lúc bấy giờ, do suy diễn, định kiến nên đã bắt bẻ tập truyện của anh. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng tác phẩm của anh biểu tượng hai mặt. Vào những năm tháng ấy mà bị “trên” chụp cho cái “đại mũ” ấy thì đồng nghĩa với con đường treo bút, thậm chí còn tệ hại hơn. Tôi hết sức ngạc nhiên vì không hiểu sao một người cầm bút hiền lành chân chất và giàu lòng nhân ái như Vi Hồng mà lại có thể gặp hoàn cảnh oái oăm đến vậy. Sự kiện ấy của anh đã khiến tôi, một kẻ mới ho he viết lách, tới một năm sau không dám động tới bút nghiên. Nhưng thật may mắn cho Vi Hồng, sau đó anh được một đồng chí lãnh đạo cao nhất của Khu Việt Bắc lúc bấy giờ giải oan. Nếu không, có lẽ Vi Hồng khó mà vươn dậy.
Cuối năm 1980, Vi Hồng đến thông báo cho tôi một tin cực kì quan trọng rằng anh đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Những năm tháng ấy mà được vào Hội Nhà văn thì có khác gì được… lên tiên. Tôi và rất nhiều anh em sáng tác ở trong tỉnh mừng cho anh và mừng cho cả phong trào văn chương của cả tỉnh.
Từ ngày được vào Hội, sức viết của Vi Hồng thật… kinh hoàng. Tôi phải dùng từ ấy là vì theo dõi tác phẩm của các nhà văn trên toàn quốc lúc bấy giờ, tôi thấy không mấy người, trước hết là về số lượng tác phẩm, được xuất bản nhiều như Vi Hồng. Chỉ khoảng hơn chục năm sau đó, Vi Hồng đã cho xuất bản tới 20 đầu sách, chủ yếu là tiểu thuyết dày hàng ba, bốn trăm trang. Việc anh viết nhiều cũng còn một lí do nữa là phải kiếm sống. Thời gian này vợ anh không có việc làm, hai cậu con trai sinh đôi còn quá nhỏ, cộng với nhiều nỗi vất vả, gian truân khác trên đường đời. Tôi biết nhiều khi Vi Hồng đã phải chiều theo các cơ quan phát hành sách đặt hàng mà phải "tốc kí". Anh làm việc thâu đêm, đôi lúc cũng không được kĩ lưỡng, chỉ cốt sao tác phẩm có thể ra đời để lấy nhuận bút nuôi vợ, nuôi con. Có một số người cũng đã phê phán anh về điểm này. Tất nhiên họ phê không sai nhưng cũng nên hiểu và thông cảm cho anh. Vi Hồng từng nhiều lần nói với tôi rằng anh có thể khổ nhưng không thể nhìn vợ con đói rách được. Đến nhà anh lúc nào tôi cũng nghe thấy tiếng máy chữ đều đều vang lên. Cho nên tôi thường bảo với anh em bạn bè rằng, chê Vi Hồng về chuyện ấy cũng được nhưng trước hết cần phải coi đó như một chiến công oanh liệt về tình phu thê, phụ tử. Cơm áo đâu đùa với khách thơ.
Những năm tháng ấy, Vi Hồng viết liên tục. Do sức khoẻ kém, anh không có điều kiện đi thực tế nên nghe được ai kể gì anh đều ghi chép để chờ thời cơ đưa vào tiểu thuyết. Chính vì điều này mà Vi Hồng từng bị rầy rà đôi chút. Đó là khi tiểu thuyết “Người trong ống” của anh vừa ra đời đã bị một giám đốc bệnh viện cho rằng anh viết về ông, vu khống đời tư của ông. Nhà văn Ma Văn Kháng lúc đó đang là Phó Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà Xuất bản Lao Động có nói với tôi vị lãnh đạo ấy đã kiện lên tận Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (vì cuốn sách do Nhà Xuất bản Lao Động ấn hành). Thực ra, Vi Hồng không hề biết mặt và đặc biệt là chẳng thù ghét gì vị giám đốc bệnh viện nọ. Những tình tiết vô tình trùng lặp có lẽ do anh “nhặt” được đâu đó trong đời sống mà thôi. Tất nhiên, văn học chỉ là văn học nên anh không sao cả. Nhưng tôi biết, từ đó mỗi khi ốm đau, anh luôn phải tránh vào cái bệnh viện ấy. Thật buồn!
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều nỗi buồn và những trái ngang mà Vi Hồng từng phải gánh chịu, cuộc đời anh lại có những “của hiếm” mà không phải ai cũng được hưởng. Có một câu chuyện mà trộm linh hồn anh, bây giờ tôi mới kể. Ngày tôi còn đang dạy học ở một xã hẻo lánh, một hôm có một cô gái trẻ, rất xinh đẹp đến trường hỏi thăm tôi. Tôi ngỡ ngàng vì không hề quen biết cô gái không mời mà đến nọ. Cô gái kể rằng cô là giáo viên văn cấp 2. Trường cô ở gần trường Đại học Sư phạm Việt Bắc sơ tán (trường mà Vi Hồng giảng dạy). Cô là người đọc Vi Hồng nhiều và si mê anh một cách thầm lặng theo kiểu tình yêu đơn phương. Cô bảo dạo này trường anh Vi Hồng đã về thành phố nên không được nhìn thấy bóng anh bước trên đường nữa. Lí do cô đến gặp tôi vì tôi cũng là người viết văn, cô đến trò chuyện với tôi là để đỡ… nhớ anh Vi Hồng. Trời ơi! Vậy mà tôi đã tưởng bở. Sao cái số ông Vi Hồng này lại đào hoa đến thế cơ chứ. Cho đến tận ngày từ giã cõi đời, Vi Hồng vẫn không hề hay biết chuyện này (do giữ lời hứa với cô giáo trẻ nọ nên tôi chưa dám một lần kể lại với Vi Hồng).
Trong đời văn của Vi Hồng có một khúc quanh đáng chú ý. Trong loạt tiểu thuyết của anh ra đời sau thời kì Đổi Mới như: Gã ngược đời (1990), Người trong ống (1990), Ái tình và kẻ hành khất (1993), Tháng năm biết nói (1994, in lại 2008), Đi tìm giầu sang (1995)… thì truyện kí (cũng có người cho là tự truyện) Đường về với mẹ chữ (1998)… đã bộc lộ một lối viết có sự đổi mới về thi pháp. Những yếu tố siêu nhiên, kì ảo, được nhà văn đưa vào tác phẩm, ít nhiều hoặc bước đầu mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ latinh. Có lẽ chính vì thế mà với tác phẩm bình dị như vậy ông đã đoạt giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác của Nhà xuất bản Kim Đồng năm 1997.
Có người cho rằng văn chương của Vi Hồng hay “chọc ngoáy” nên không được thiện cảm của giới lãnh đạo. Điều này hoàn toàn không đúng. Chính đồng chí Nông Đức Mạnh hồi còn làm Bí thư Tỉnh ủy Bắc Thái đã can thiệp, giúp đỡ để vợ Vi Hồng chuyển công tác từ Cao Bằng về Bắc Thái. Khi Vi Hồng trọng bệnh, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Ngô Hai đã hai lần cùng tôi đến tận nhà Vi Hồng để thăm hỏi động viên. Ngày Vi Hồng từ trần, lễ tang anh, từ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân đến các ban, ngành trong tỉnh đều đến phúng viếng rất trang trọng.
Năm 2012, Vi Hồng được trao Giải thưởng Nhà nước với 2 tác phẩm tiểu thuyết "Đất bằng" và "Đường về với mẹ chữ". Tuy chỉ là truy tặng, nhưng đó là niềm tự hào không chỉ riêng anh và gia đình mà còn là niềm vui của tất cả những người cầm bút ở Thái Nguyên. Những người bạn tâm giao của anh đều hiểu rằng, giải thưởng này, vinh dự này, không chỉ là trao tặng cho những tác phẩm, mà còn trao cho anh vì một tinh thần sáng tạo quên mình của một nhà văn đã vượt qua bao chông gai, gian khổ của đời người để đến với văn chương.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin