Đồng chí Nông Văn Lạc - Người góp lửa cho Cách mạng Tháng Tám ở Bắc Kạn

Kim Kim 14:31, 29/08/2025

Trong dòng chảy sôi sục của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những địa danh như Hà Nội, Huế, Sài Gòn thường được nhắc đến như những biểu tượng lớn của ngày khởi nghĩa. Nhưng ở Chiến khu Việt Bắc, cùng với Thái Nguyên, tại tỉnh Bắc Kạn nhỏ bé, cũng đã có những con người bình dị góp phần tạo nên chiến thắng. Đồng chí Nông Văn Lạc là một nhân vật tiêu biểu – người đã cùng nhân dân tỉnh Bắc Kạn cũ, mảnh đất nay là một phần của tỉnh Thái Nguyên – vùng lên giành chính quyền cách mạng, làm nên trang sử oanh liệt của quê hương.

Từ người nông dân mù chữ đến chiến sĩ cách mạng kiên trung

Đồng chí Nông Văn Lạc sinh năm 1914 tại xóm Phai Khắt, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình (nay là xã Tam Kim, tỉnh Cao Bằng). Tên khai sinh là Nông Văn Phùng, bí danh là Tán Thuật. Là người dân tộc Tày, sinh ra trong một gia đình nghèo nên không biết chữ cho đến khi bước chân vào cách mạng.

Cuộc đời ông là một minh chứng sống động cho sự chuyển mình của con người trước ánh sáng của lý tưởng cách mạng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số cán bộ tham gia giành chính quyền ở Bắc Kạn: đồng chí Doanh Hằng – sau này là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái, đồng chí Nông Văn Lạc (thứ hai và thứ ba từ trái sang), đồng chí Nông Văn Quang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn (thứ hai từ phải sang)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số cán bộ tham gia giành chính quyền ở Bắc Kạn: đồng chí Doanh Hằng – sau này là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái, đồng chí Nông Văn Lạc (thứ hai và thứ ba từ trái sang), đồng chí Nông Văn Quang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn (thứ hai từ phải sang).

Năm 1941, ông bắt đầu hoạt động trong tổ chức Việt Minh tại Cao Bằng. Dưới sự chỉ đạo và dìu dắt của đồng chí Võ Nguyên Giáp – khi ấy còn đang trực tiếp xây dựng cơ sở cách mạng – đồng chí Nông Văn Lạc dần trở thành cánh tay phải của cách mạng vùng rừng núi. Nhà ông từng là nơi hội họp, nuôi giấu cán bộ, sau bị địch chiếm làm đồn Phai Khắt.

Trong hồi ký “Từ nhân dân mà ra”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng kể lại khoảnh khắc kết nạp ông vào Đảng tại một gốc cây giữa rừng sâu. Sau buổi lễ, ông đã chạy xuống khe núi, múa tít hai ống nứa như thể trút hết niềm vui và xúc động – hình ảnh đầy cảm xúc của một con người bình dị lần đầu chạm vào ánh sáng của lý tưởng cách mạng.

Vai trò chủ chốt trong Cách mạng Tháng Tám tại Bắc Kạn

Tháng 1-1944, Ban Cán sự Đảng tỉnh Bắc Kạn được thành lập. Cùng với đó, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập gồm 3 đồng chí: Nông Văn Lạc, Dương Mạc Hiếu và Tùng Vân; Tỉnh bộ Việt Minh Bắc Kạn được thành lập gồm 3 đồng chí: Đồng Văn Bằng (Chủ nhiệm), Doanh Hằng và Nông Công Tú.

Đồng chí Nông Văn Lạc là một trong ba cán bộ chủ chốt đầu tiên của Tỉnh ủy lâm thời, ông bắt đầu hành trình xây dựng phong trào cách mạng tại tỉnh miền núi này – nơi còn vô vàn khó khăn về tổ chức, nhận thức quần chúng và cơ sở vật chất.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Nông Văn Lạc 
(sát bên phải Đại tướng)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Nông Văn Lạc (sát bên phải Đại tướng).

Tháng 5-1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường từ Pác Bó đến Tân Trào, ông là một trong những người được giao nhiệm vụ đón và hộ tống Bác qua đất Bắc Kạn. Hồi ký “Ánh sáng đây rồi” của ông đã ghi lại nhiều câu chuyện cảm động về sự giản dị, gần gũi và tài thao lược của vị lãnh tụ kính yêu trong những ngày đầu chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trung tuần tháng 8-1945, ngay khi nhận tin quân Nhật đầu hàng, nhận rõ thời cơ thuận lợi, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, các lực lượng cách mạng trong phạm vi toàn tỉnh nhanh chóng nổi dậy. Tại Bắc Kạn, nhiều cứ điểm đồn trú của quân Nhật bị lực lượng cách mạng bao vây, uy hiếp, lâm vào tình trạng thiếu lương thực, hao hụt vũ khí. Tinh thần sĩ quan và binh lính Nhật hoang mang, lo sợ, buộc phải rời bỏ các địa điểm nhỏ lẻ, co cụm về thị xã để bảo toàn lực lượng.

Nhận thấy thời cơ đã đến, đồng chí Nông Văn Lạc cùng các lực lượng vũ trang và tổ chức Việt Minh đã lập kế hoạch giành chính quyền trên toàn tỉnh.

Ngày 11/8/1945, tại Píc Cáy (Mỹ Phương, Chợ Rã), Tỉnh ủy Bắc Kạn triệu tập Hội nghị cán bộ quân chính bàn biện pháp tiến công tiêu diệt quân phát xít, giải phóng thị xã. Tuy nhiên, lực lượng bảo an ở Lanh Chang (xã Lục Bình, huyện Bạch Thông cũ nay là xã Phủ Thông) do Đội Ngọc chỉ huy tìm cách đánh úp, hội nghị hoãn lại. Thoát chết trong vụ tập kích trên, ông Nông Văn Lạc kể lại: “…Một buổi trưa tôi lên Píc Cáy, một bản Dao trên núi Cứu Quốc, gặp đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch - Chính trị viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân) và cụ Chánh Chúng đang ăn cơm. Cơm xong, trao đổi công việc, rồi đồng chí Xích Thắng bảo ở lại ngủ. Đến sáng, chưa dậy đã nghe chủ nhà báo gọi: Có người dưới làng lên bảo đưa đường sang Cốc Ngỏa – một trạm giao thông liên lạc của ta ở đấy. Tôi ra theo, lấy bộ quần áo còn phơi ở ngoài. Nhìn lố nhố người dưới bờ đá, toàn màu vàng. Không xong rồi, tôi quay vào, xách túi tài liệu và khẩu súng ngắn. Rồi người chạy trước, người ra sau, mỗi người một ngả. Tiếng súng nổ chan chát, văng vào đá, xuyên mái nhà, bay qua đầu, qua mang tai: veo veo, xoẹt xoẹt, chiu chiu… Tôi lao xuống thấp theo cách đã học ở lớp quân sự bảy ngày. Tôi ngã xuống cái vực đá sâu. Thấy người choáng váng, tỉnh lại, lê chân không được, quần đầu gối rách, máu chảy. Tưởng bị đạn, sau biết chỉ va vào đá chảy máu…”.

***

Để tránh đổ máu không cần thiết, Ban Chỉ huy đơn vị Quân giải phóng đồng ý thương thuyết với chỉ huy quân Nhật đang chiếm đóng tại Bắc Kạn. Ngày 19/8/1945, đại diện Quân giải phóng là đồng chí Thu Sơn, Hải Phong và đại diện quân đội Nhật gặp nhau tại sân bay thị xã. Phía Việt Minh nói rõ chính sách nhân đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong trường hợp kẻ bại trận không can thiệp vào công việc nội bộ của cách mạng Việt Nam, yêu cầu quân Nhật giao nộp vũ khí… Phía Nhật hứa không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Minh, chấp nhận yêu cầu của Việt Minh; phía Việt Minh đồng ý cấp cho quân Nhật lương thực, thực phẩm và dừng tấn công nếu họ chịu rút ngay toàn bộ lính về Hà Nội.

Từ Chợ Rã, các đồng chí đại diện Tỉnh ủy, Tỉnh bộ Việt Minh và chỉ huy Quân giải phóng quyết định thành lập một đơn vị vũ trang do đồng chí Nông Văn Lạc phụ trách tiến về thị xã. Đơn vị chia làm hai ngả tiến xuống Phủ Thông (Bạch Thông), nơi có lực lượng quân Nhật chiếm đóng. Ngày 19/8/1945, quân giải phóng tiến vào Phủ Thông, quân địch rút chạy, viên bang tá tay sai sợ hãi ra trình diện cách mạng. Đến cầu Nà Cù, lực lượng cách mạng chạm trán với quân Nhật, nhưng chúng không dám chống cự.

Hồi ký “Ánh sáng đây rồi” của đồng chí Nông Văn Lạc kể: “Tôi bước lên, thấy ba thằng, hai thằng Nhật đeo thanh kiếm dài chạm đất, một người mặc quần áo ngắn đen, hỏi tôi: Các anh đi đâu?

- Tôi là đại diện Việt Minh, được lệnh thượng cấp tối nay tiến về chiếm thị xã và yêu cầu quân đội Nhật phải rút về nước theo lệnh Đồng Minh.

 Anh thông ngôn áo đen nói:

- Không đi được! Hiện nay quân đội Nhật ở khắp nơi đương về đông lắm. Đi thì gây ra đánh nhau, chết.

- Chết cũng đi. Đây là lệnh thượng cấp

Thấy ba thằng nói lố nhố với nhau. Một thằng Nhật rút túi ra tờ giấy, cầm bút ngoáy lia lịa rồi đưa tôi, ra hiệu bảo đi. Tôi cầm cái giấy chân rảo bước, có đoàn quân tiến theo về thị xã Bắc Kạn...”.

 Ngày 20/8/1945, đồng chí Nông Văn Lạc và đồng chí Sơn Cương gặp chỉ huy quân phát xít Nhật đóng tại thị xã Bắc Kạn. Quân Nhật đầu hàng theo thỏa thuận trước đó tại sân bay, giao nộp vũ khí, kho tàng, cơ quan, hứa khi tập trung hết các lực lượng về thị xã sẽ rút ngay về Hà Nội.

Ngày 21/8/1945, lực lượng Việt Minh và quân Giải phóng tiến vào thị xã, tiếp quản các công sở, kho tàng. Về sự kiện này, hồi ký “Ánh sáng đây rồi” viết: “Hai chúng tôi xếp hàng đôi đi đều lên đồn. Đến cổng, thấy lính gác đứng nghiêm và một người đeo thanh kiếm bên cạnh chào chúng tôi. Họ biết nói tiếng Việt bập bẹ rồi đưa chúng tôi vào đồn.

 Tôi nói ngay điểm thứ nhất: thu toàn bộ vũ khí, đồ đạc kho quần áo nhà binh, điểm thứ hai... Anh phiên dịch nói lại cho quan Nhật nghe.

Tên quan Nhật nói: sẽ nộp võ khí và đồ đạc lấy được của Pháp. Còn võ khí của quân Nhật, theo lệnh Nhật Hoàng, sẽ nộp cho nơi được quy định, nộp ở đây chưa được. Còn điều thứ hai sẽ mời các ông đi kiểm tra kho tàng và các cơ quan công sở bên hành chính. Việc này chúng tôi giao cho ông chánh án Phụng người địa phương trực tiếp với các ông.

Điều thứ ba nói về việc rút quân thì tên quan Nhật trình bày: quân Nhật đóng còn rất đông, nếu các ông đưa quân vào ngay là xảy ra xô xát. Chúng tôi muốn rút nhanh, nhưng hiện còn quân đang trên đường đi từ Nguyên Bình về đây, bị quân các ông đón đánh, phải đi rất chậm. Số này đến nơi, chúng tôi rút hết ngay. Xin các ông ra lệnh cho quân đội các ông đừng đánh để cho số quân này về được sớm.

Chúng tôi trao đổi rồi trả lời: Sẽ cho người đi truyền lệnh ngay. Hắn gật đầu và nói cảm ơn. Hắn cũng viết thư cho quân đội đang trên đường về đây cho ta cầm đi.

Thỏa thuận xong, tên quan Nhật gọi thêm mấy người đưa chúng tôi đi khắp trong đồn xem từng chỗ gác...”.

Ngày 23/8/1945, đoàn xe chở 400 quân Nhật rút khỏi thị xã Bắc Kạn. Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn sạch bóng quân xâm lược.

Cùng ngày 23/8/1945, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn triệu tập Hội nghị cán bộ tại Phủ Thông. Tham dự Hội nghị có trên 30 cán bộ đại diện Đảng bộ, Tỉnh bộ Việt Minh, Chỉ huy Quân Giải phóng và các châu trong tỉnh. Sau khi nghe báo cáo về thắng lợi to lớn của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, chủ trương và chính sách của Đảng trong tình hình mới, Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Bắc Kạn, gồm 9 ủy viên do đồng chí Nông Văn Lạc giữ chức Chủ tịch. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được bổ sung một số ủy viên, do đồng chí Nông Văn Quang (Lý Công) giữ chức Bí thư Tỉnh ủy.

Ngày 25/8/1945, cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại thị xã Bắc Kạn, với sự tham dự của hàng nghìn đồng bào các dân tộc trong thị xã, huyện Bạch Thông và đại biểu các địa phương toàn tỉnh. Đại diện Tỉnh bộ Việt Minh tuyên bố xóa bỏ toàn bộ chính quyền địch ở Bắc Kạn, thành lập chính quyền cách mạng và giới thiệu thành phần Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh.

Ngày 27/8/1945, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời mở phiên tòa công khai xét xử những tên phản động có nợ máu với cách mạng. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Bắc Kạn là một dấu mốc lịch sử vĩ đại, một minh chứng hùng hồn thể hiện lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Bắc Kạn dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong những cuộc đàm phán trực tiếp với quân Nhật, đồng chí Nông Văn Lạc thể hiện rõ sự kiên quyết và bản lĩnh. Những đối thoại trong hồi ký của ông đã trở thành một phần của lịch sử tỉnh nhà nơi mà tinh thần “chết cũng đi” đã trở thành hiệu lệnh cho cách mạng tiến lên.

Dấu ấn trong lịch sử và lòng dân

Sau thắng lợi, ngày 23/8/1945, đồng chí Nông Văn Lạc được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Bắc Kạn – người đứng đầu chính quyền cách mạng đầu tiên của tỉnh. Hai ngày sau, tại cuộc mít tinh lớn ở thị xã, với hàng nghìn người tham dự, Bắc Kạn chính thức tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền nhân dân.

Gia đình đồng chí Nông Văn Lạc trong kháng chiến chống Pháp
Gia đình đồng chí Nông Văn Lạc trong kháng chiến chống Pháp.

Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 6/1/1946, đồng chí Nông Văn Lạc cùng đồng chí Hoàng Hùng Sơn đã được cử tri Bắc Kạn bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Từ một người nông dân vùng cao, ông bước vào hàng ngũ những người đặt nền móng cho thể chế dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam.

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nông Văn Lạc từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh, Trưởng ban Kiểm tra Khu tự trị Việt Bắc, Khu ủy viên, Ủy viên Thường trực Quốc hội... Năm 1978, ông nghỉ chế độ. Năm 2009, ông được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh – phần thưởng cao quý dành cho những người đã tận hiến cả đời cho Tổ quốc.

Dù là người con của đất Cao Bằng, nhưng trong tâm khảm nhân dân Thái Nguyên, Nông Văn Lạc mãi mãi là một người con trung kiên, tận tụy, người đã cùng các dân tộc trong tỉnh làm nên mùa thu cách mạng trên mảnh đất chiến khu xưa. 

Cuộc đời ông – từ gian khó đến đỉnh cao phụng sự – là biểu tượng cho sức mạnh vượt lên số phận, cho niềm tin không bao giờ tắt vào con đường cách mạng. Một đời của ông, là một ngọn lửa – cháy mãi cùng lịch sử.