'Ngọn đuốc sáng' của người Dao

Cao Duy Sơn 14:46, 29/08/2025

Trong cuộc đời làm thơ có lẽ nhà thơ Bàn Tài Đoàn để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng đồng nghiệp và thế hệ độc giả qua các thời kỳ. Ấn tượng về ngôn ngữ, hình tượng trong thơ, những liên tưởng đậm bản sắc văn hóa về vùng đất con người nơi ông sinh ra không lẫn với ai, không giống ai trước, hay sau này. Ông là duy nhất, sáng tạo nên một giọng thơ riêng. Lối viết đó thuộc về ông. Có ai cố tạo vẻ cho giống bóng chữ của ông cũng trở nên thô vụng, lạc lõng.

 

Thơ ông không bọc vỏ ngôn ngữ bóng bẩy, cao xa, hay làm điệu, nó đến thẳng trái tim con người một cách giản dị, chân thành. Ông xác lập vị trí riêng, độc đáo trong thi ca Việt Nam.

Ngày còn nhỏ khi đất nước dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, tại nơi ông được sinh ra, bản Xlí Kèng, xã Quang Thành, huyện Nguyên Bình (nay là xã Thành Công), tỉnh Cao Bằng, ông và gia đình, cùng dân bản đã trải qua những tháng ngày đói cơm, thiếu muối triền miên.

Dấu ấn đó luôn ám ảnh ký ức, khuấy động tâm hồn, thôi thúc ông viết nên những vần thơ mộc mạc nhưng có sức lay động lòng người, thức tỉnh những thân phận bao năm chịu áp bức, đói nghèo cùng đoàn kết, đứng lên đấu tranh giành độc lập cho nước nhà.

Đó là cảm hứng, nguồn cơn sáng tạo từ buổi đầu tập làm thơ của ông. Sau này thơ ông vẫn luôn thế. Đảng, Bác Hồ, đồng bào Dao, quê hương Cao Bằng, núi rừng Việt Bắc tươi đẹp luôn là nguồn cảm hứng để ông sáng tạo nên những tác phẩm.

Trải lòng về đời viết văn của mình, trong hồi ký Bàn Tài Đoàn viết: “…Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân vùng cao, du canh, du cư, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, sách không được học một chữ.

Tôi may mắn được gặp cách mạng và đi theo cách mạng, được Đảng dìu dắt quan tâm cho tôi làm thơ ca dân tộc để phục vụ dân tộc. Tôi như người đang trong bóng tối vừa mới ra ánh sáng còn bỡ ngỡ. Làm cách mạng đã khó, làm thơ lại càng khó hơn nữa. Chữ không biết, tiếng phổ thông không biết, có lúc tôi nghĩ không thể làm nổi, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ cách mạng, Đảng đã giao cho phải cố gắng mà làm, và anh em bạn bè cũng động viên nên tôi cũng cố mày mò làm.

Lúc đầu tôi viết chưa thành thơ, chỉ là một vài câu ngắn, nhưng được sự động viên của Đảng, của bạn bè những vần thơ nôm na ấy vẫn được đăng báo, như bài “Nam Bắc gặp nhau”. Lại được in sách phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

Sau này có đêm tôi nghe cô phát thanh viên ngâm bài “Muối Cụ Hồ” tôi cảm động đến phát khóc lên, và chạnh nghĩ, ngày xưa đói rách không ra gì, ngày nay được giới thiệu trên đài. Từ đó tôi càng phấn khởi, biết ơn Đảng và cách mạng đã dìu dắt tôi nên người. Tôi càng cố gắng viết. Đến nay tôi đã có 15 tập sách được các nhà xuất bản in và phát hành. Đó là thành quả một đời làm thơ của tôi…”.

Đó là trải lòng khiêm nhường của nhà thơ về chặng đường sáng tác. Thể hiện tình cảm biết ơn sâu nặng của nhà thơ dân tộc Dao với Đảng, cách mạng và Bác Hồ. Ông thành thực:“Không có cách mạng, không có Đảng, không có Bàn Tài Đoàn, càng không có nhà thơ Bàn Tài Đoàn…”. Lời tâm can đó đâu phải cho riêng ông, còn đại diện cho cả tộc người Dao quê hương. Những ngày tăm tối ấy, nếu không có Đảng, Bác Hồ chỉ đường, dẫn lối đâu có ngày nay.

Cùng lắng lại để tìm hiểu thêm về cuộc đời, chặng đường hoạt động, cống hiến cho Cách mạng của ông. Bàn Tài Đoàn tên thật là Bàn Tài Tuyên, sinh ngày 29/8/1913. Dân tộc Dao Tiền, là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1957 ông đã là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Tham gia Cách mạng từ năm 1942. Năm 1945 công tác tại Phòng Tuyên truyền, Cục Chính trị, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ năm 1951 đến lúc nghỉ hưu ông từng trải qua các chức vụ: Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Khu tự trị Việt Bắc; Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Việt Bắc; Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Bằng những cống hiến và sáng tạo không mệt mỏi, năm 2001 ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật đợt 1.

Sinh ra, lớn lên trong một gia đình nghèo, Bàn Tài Tuyên sớm gia nhập Mặt trận Việt Minh. Tại khu rừng Slam Khao (nay là rừng Trần Hưng Đạo), Bàn Tài Tuyên đã được gặp các anh cách mạng. Trong đó có đồng chí Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) người trực tiếp dìu dắt và giác ngộ anh. Sớm nhận ra năng khiếu của chàng trai trẻ người Dao, đồng chí Văn đã đặt bí danh cho anh là Đoàn Kết, giới thiệu anh với cơ quan tuyên truyền để bồi dưỡng trở thành cán bộ nòng cốt; vừa khuyến khích anh làm thơ, những câu thơ bằng chữ Nôm Dao, được anh dùng mũi dao khắc lên lá chuối, truyền tới quần chúng. Những tác phẩm thơ trên chất liệu đặc biệt đó, mang nội dung tuyên truyền cách mạng, kêu gọi người dân đoàn kết, ủng hộ Việt Minh, đứng lên đánh đuổi thực dân đế quốc đã lan rộng khắp các thôn xóm người Dao núi rừng Việt Bắc. Từ đó cái tên Bàn Tài Đoàn dần trở nên quen thuộc với người dân nơi căn cứ cách mạng.

Có thể nói bước đường đến với thơ của Bàn Tài Đoàn là độc đáo, không giống ai. Thuở nhỏ nhà nghèo không được đi học, vốn liếng chỉ có ít chữ Nôm Dao. Nhưng ẩn sâu trong ông là một tâm hồn thơ, năng khiếu thơ. Trước yêu cầu của tổ chức, cần có những bài thơ viết bằng tiếng Việt để tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong quần chúng, ông quyết tâm vừa làm thơ vừa học chữ. Với ông đó là cuộc cách mạng. Một cuộc cách mạng mang ý nghĩa và giá trị lớn đã làm thay đổi ngôn ngữ sáng tạo. Quá trình phấn đấu đầy gian nan thử thách đó đã được ghi nhận. Nếu coi những vần thơ khắc trên lá chuối mang nội dung truyên truyền trong quần chúng khi còn hoạt động bí mật, thì ông chính là nhà thơ dân tộc thiểu số đầu tiên của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

Thơ ông hồn nhiên, trong sáng, sâu nặng nghĩa tình tựa như đất, người quê hương: “Đất  châu Nguyên Bình bao la rộng/Ruộng đồng thì ít núi nhiều thay/Phía Nam núi đất rừng xanh biếc/Phía Bắc núi nhọn chọc trời mây…”.

Viết về người Dao ông bày tỏ niềm tự hào, yêu mến vô cùng những con người hiền lành, thủy chung, tâm trong như con nước đầu nguồn đã có những đóng góp quan trọng cho cách mạng kháng chiến:

“Người Dao nghèo khổ mà hiên ngang/Dũng cảm, yêu thương lòng chân thật/Thủy chung với bạn với nước non…”.

Với Khu di tích lịch sử Pác Bó trong một dịp đến thăm, ông đã cảm tác: “Núi rừng nghe lời ca, tiếng hát/Xuân về nở rộ hoa kim anh/Măng vầu, măng trúc cùng cao vút/Như giáo như gươm giữ rừng xanh…”(Suối Lê Nin, núi Các Mác).

Không chỉ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, lòng tận tụy, thủy chung, bản tính cần cù  của người Dao, Bàn Tài Đoàn còn có những bài thơ ngợi ca Đảng, Bác Hồ, nhờ có Đảng, có Bác đồng bào dân tộc thiểu số nay đã có cuộc đời ấm no, được đi trên con đường Hạnh Phúc: “Có ai muốn lên Đồng Văn chơi/Ra đường lên xe đi nghe thấy/Còn muốn ngồi thêm đã đến nơi/Đường này Chính phủ, Cụ Hồ mở/Mở thành đường tốt cho người dân…”(Đường lên Đồng Văn).

Với người từng dìu dắt mình đến với cách mạng, trong lần gặp lại Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau bao năm xa cách, Bàn Tài Đoàn đã xúc động thốt lên những vần thơ: “Đồng chí tình thân như ruột thịt/Dìu dắt tôi đi bước đường thơ/Giấy bằng lá chuối, dao làm bút/Ngày nay nên người nhớ lại xưa”(Gặp đồng chí Văn).

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà thơ không chỉ có bài “Muối Cụ Hồ”, ông còn có tác phẩm“Bác Hồ ở trong ta” viết ngày Bác mất (1969): “Sáng nay cháu ở trên rừng/Nghe tin như sét đánh tối trời/Tin báo về Bác Hồ đã mất/Nghe xong như đứt ruột Bác ơi/Người Dao xưa đời đời nghèo khổ/Bác về đời người Dao đổi thay/Mọi dân tộc bình quyền, bình đẳng/Cuộc đời người Dao mới từng ngày/Người Bác Hồ nay không còn nữa/Hình Bác Hồ còn mãi trong tim ta/Ban ngày Bác cùng mặt trời chiếu/Ban đêm lửa Bác sáng mọi nhà/Bác Hồ có ở khắp mọi con mắt/Bác Hồ ở cả mọi bàn tay/Lúc nào lòng ta nhớ tới Bác/Bác Hồ liền hiện ra trước mắt ngay/Bác Hồ vẫn đến cùng ta ở/Cùng với người Dao ở núi cao/Định canh, định cư trên đất mình/Có Bác ta chẳng lo chút nào/Bác Hồ ở mãi trong lòng ta”.

Trên chặng đường sáng tác nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã xuất bản 13 tập thơ, 3 tập văn xuôi trong đó có hồi ký “Đời người Dao” năm 1948; “Khu Quang Trung” năm 1994; một tiểu luận “Vấn đề văn nghệ miền núi” năm 1998. Trong 13 tập thơ của ông cho xuất bản có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu: “Muối Cụ Hồ” 1960; “Có mắt thấy đường đi” 1962; “Kể chuyện đời” 1968; “Chùm sấy cấu” 1969; “Sáng cả hai miền” 1975; “Gửi đồng bào Dao” 1979; “Bước đường tôi đi” 1985...

Với tập thơ song ngữ Việt-Dao “Bó đuốc sáng” do Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in và phát hành năm 2002 cũng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong bạn đọc. Ở tập  này Bàn Tài Đoàn kể với mọi người cuộc đời ông, một cuộc đời đã gắn với số phận người Dao xưa đói nghèo, bệnh tật. Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công người Dao cùng đồng bào cả nước đã được hưởng tự do, độc lập, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Được học chữ, được tôn trọng, bình đẳng với các dân tộc anh em.

Có thể nói, cuộc đời hoạt động cách mạng, và sáng tác thơ Bàn Tài Đoàn là một thể thống nhất. Ông đã dùng tác phẩm của mình vận động quần chúng, tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Động viên, cổ vũ đồng bào đoàn kết, chung tay xây dựng, bảo vệ một nước Việt Nam thống nhất, giàu mạnh.

Với ông trước đây, sau này vẫn luôn một tâm thế sáng tạo như vậy. Sáng tác thơ là để phục vụ đồng bào. Những bài thơ mộc mạc, giản dị kể về cuộc đời, vẻ đẹp tự nhiên, trong sáng đậm phong vị người Dao.

Cả không gian văn hóa, phong tục, tập quán, nếp ăn, ở, cư xử với nhau, vẻ đẹp tiêu biểu tự ngàn đời của người Dao đã được Bàn Tài Đoàn lựa chọn đưa vào tác phẩm. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị hiện ra từ ý nghĩ, mang phẩm chất tư duy cá thể. Một cá thể từ thể chất đến tâm hồn đều cốt cách người Dao. Kể về dân tộc mình, thời đại mình đã sống, chứng kiến mà viết thành thơ; những câu thơ về khổ đau, gian khó, hy sinh của bao người, mới có được một Việt Nam như ngày nay.

Vậy không thể coi thơ ông như một cách nói thông thường. Đó là thơ được chiết ra từ tâm hồn của người con dân tộc. Được trình diễn bằng ngôn ngữ tiếng Việt đã tạo ra phong cách riêng, độc đáo, có giá trị nghệ thuật được ghi nhận. Vậy nên, ngày nay thơ ông vẫn được đồng bào Dao đem hát Páo dung trong những ngày lễ hội, cưới hỏi, vào nhà mới. Ông vẫn sống trong lòng đồng bào Dao những lúc vui, khi buồn. Ông là nhà thơ, là người bạn lớn của người dân. Thơ ông cho con người niềm tin và lẽ sống.

Sinh thời ông băn khoăn, ai sẽ tiếp bước con đường thơ của mình? Nỗi niềm đầy trách nhiệm của người đi trước lo nghĩ về tương lai: “Ngày nay tôi đã nhiều tuổi tác/Như mặt trời sắp xế về Tây/Con đường làm thơ dài dằng dặc/Nghĩ ai sẽ nối bước đi này…(Tìm bạn).

Với bạn đọc những tác phẩm tiêu biểu của Bàn Tài Đoàn thường được nhắc đến: “Muối Cụ Hồ”, “Bước đường tôi đi”, “Mình ơi”. Bên những tác phẩm thơ đã xuất bản viết theo lối kể về cuộc đời, dân tộc… thì đây là những tác phẩm mang cảm xúc cá nhân rõ nét nhất. Những câu thơ bay bổng, chạm tới nỗi đau khôn cùng khi khóc thương người vợ đã mất trong “Mình ơi” đã đưa ông lên một tầm cao mới. Tứ thơ, cảm xúc, ngôn từ dường như cùng lúc đồng hiện đã tạo nên hiệu quả bất ngờ và xúc động: “...Đã sống với nhau đôi vợ chồng/Khi yêu chẳng muốn rời một buổi/Lúc giận nặng lời chẳng muốn trông/Nhưng làm cỏ nương mong trời tối/Lúc vắng tôi, mình chỉ một mình/Nuôi con trông mẹ nặng nghĩa tình/Mỗi khi giáp hạt, không ngô thóc/Đào củ độn khoai nhai muốn khóc…./Ngày nay mình đã bước đi xa/Bỏ tôi lủi thủi một thân già/Có khi thoáng nghĩ:"hay đi thật!"/Không hãy cùng thơ sống thiết tha/Sống trong phòng nhỏ đất Nguyên Bình/Văng vẳng bên tai tiếng của mình/Lợn đói đòi ăn, gà đạp cửa/Thơ tôi dài mãi những tâm tình?...”.

Hay với bài “Muối Cụ Hồ”: "Xưa con khóc đòi ăn cơm chấm muối/Mẹ tìm đâu ra hạt muối cho con/Mẹ dỗ, con ơi đừng khóc nữa/Bố gánh củi đi chợ đổi muối rồi/Con nín nghe theo lời mẹ bảo/Bố về được muối đầu đũa ngon/Cánh cửa xác xơ vừa kẹt mở/Vui sướng bao nhiêu thấy bố về/Nhưng sao im lặng bố không nói/Con hỏi muối đâu bố lắc đầu/Không đủ tiền người giàu không bán/Niềm mong thất vọng đến với con/Nước mắt con chảy quanh má nhỏ/Bố chỉ nhìn con biết nói sao/Từ khi cán bộ Cụ Hồ đến/Ngoài chợ có bán nhiều thứ hàng/Có hàng bán muối tha hồ chọn/Có hàng bán vải đỏ, vải xanh/Cụ Hồ mang áo về dân mặc/Cụ Hồ đem muối về dân ăn/Nay Bác bảo ta đi đào đất/Mở thêm đường cái lên Đồng Văn/Có xe mang thêm nhiều muối đến/Người Mèo ta không sợ đói nghèo”.

 

Đây là bài thơ được lấy tên đặt cho tập tác phẩm đầu tiên của Bàn Tài Đoàn in năm 1960. Vậy là kể từ ngày đó đến nay đã hơn 60 năm, tập thơ với những câu thơ đầy nước mắt, cả niềm hân hoan vui sướng khi được sống trong hòa bình ngày nào còn in sâu tâm trí bao thế hệ.

Làm thơ để ghi lại thời đại mình, là điều nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã làm và làm được. Đó là sự tự nguyện của thi sĩ, gánh trên vai trách nhiệm với Đảng, với dân. Làm thơ là nói lên vẻ đẹp tâm hồn con người, quê hương đất nước... nhưng còn trọng trách tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới người dân, cho dân biết, dân tin, làm theo. Thơ về quá khứ để không ai quên những ngày sống kiếp nô lệ, vươn lên làm chủ đất nước. Đó là bản chất, là lẽ sống của nhà thơ dân tộc Dao Bàn Tài Đoàn. Ông chính là ngọn đuốc sáng của người Dao trên đất nước Việt Nam, trước đây, sau này sẽ mãi là vậy.

Nhà thơ Bàn Tài Đoàn mất ngày 17/1/2007 thọ 95 tuổi. Nhưng với người dân Cao Bằng, người yêu thơ ông trên khắp đất nước, ông và những vần thơ mộc mạc giản dị thắm tình người như cuộc đời ông sẽ còn mãi trong niềm yêu quý và kính trọng.