Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện trọng đại, chói lọi trong lịch sử thế giới và của dân tộc Việt Nam. Đây là cột mốc đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến tại Việt Nam.
Trên thế giới, chế độ phong kiến xuất hiện từ rất sớm, bắt nguồn từ các nền văn minh cổ đại như Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp... Tại phương Đông, chế độ này hình thành từ thời Tây Chu ở Trung Quốc và chỉ kết thúc sau cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911, khi triều đại nhà Thanh sụp đổ. Ở Nhật Bản, phong kiến chỉ chấm dứt vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau cuộc Duy Tân Minh Trị.
![]() |
| Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Ảnh tư liệu |
Khác với nhiều quốc gia thoát khỏi phong kiến bằng cách mạng tư sản, Việt Nam là trường hợp đặc biệt. Chế độ phong kiến ở nước ta tồn tại hàng nghìn năm, xen kẽ với nhiều thời kỳ bị đô hộ bởi các triều đại phương Bắc. Sang thế kỷ XIX, Việt Nam rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp, và đến Thế chiến thứ hai, lại phải chịu thêm sự chiếm đóng tàn bạo của phát xít Nhật. Vì vậy, cuộc cách mạng giành độc lập của Việt Nam mang tính chất đặc thù: vừa lật đổ phong kiến, vừa chấm dứt ách đô hộ của thực dân và phát xít, mở đường cho một nhà nước kiểu mới ra đời.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương, Cách mạng Tháng Tám đã diễn ra thần tốc, chỉ trong vòng hai tuần, chính quyền đã về tay nhân dân trên phạm vi cả nước. Cuộc cách mạng không chỉ xóa bỏ vĩnh viễn chế độ phong kiến và ách đô hộ thực dân – phát xít, mà còn khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong lịch sử thế giới, nhiều cuộc cách mạng từng lật đổ chế độ phong kiến và quân chủ nhưng phải trải qua các giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động. Ở Anh, Cách mạng Tư sản 1642 chỉ mở đường cho quá trình lập hiến kéo dài. Tại Pháp, sau Cách mạng 1789 là chuỗi bất ổn chính trị dẫn đến cuộc đảo chính của Napoleon năm 1799, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa. Ở Nga, Cách mạng Tháng Mười phải đi qua Cách mạng Tháng Hai và thời kỳ chính phủ lâm thời. Tại Trung Quốc, mãi đến năm 1949, cách mạng mới thành công.
Trái lại, Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam là một trường hợp đặc biệt hiếm có: giành thắng lợi trọn vẹn trong thời gian ngắn, không trải qua giai đoạn chuyển tiếp kéo dài, thể hiện tinh thần đoàn kết, quyết tâm và sức mạnh của toàn dân tộc.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó, ngày 2/9 không chỉ là dấu mốc lịch sử chính trị mà còn trở thành biểu tượng văn hóa –ngày hội lớn của dân tộc, khẳng định ý chí độc lập và khát vọng tự do bền bỉ của nhân dân Việt Nam.
Ngày 2/9/1945 đã trở thành ngày đặc biệt trong đời sống và văn hóa của dân tộc Việt Nam với những tình tiết thú vị.
1. Người nước ngoài duy nhất được Bác Hồ mời tham vấn bản Tuyên ngôn Độc lập
Ngày 19/8/1945 Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi thì ngày 26/8/1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Bác Hồ đã họp Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lễ Tuyên bố Độc lập và ra mắt nhân dân Chính phủ lâm thời. Ngày hôm sau Bác Hồ đã thảo xong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ.
Ngày 29/8/1945 Bác đã mời Archimedes L.A.Patti (Trưởng phòng Đông Dương của cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS ở Hoa Nam) đến nghe dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập và trao đổi một số vấn đề.
Ngày 2/9/1945 trong vô số băng rôn khẩu hiệu bằng tiếng Trung, Pháp, Anh là những thứ tiếng phổ biến trên thế giới, nhiều người biết. Bác đã chủ trương phổ biến rộng rãi khắp nơi về sự kiện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời, có mặt trong đời sống nhân loại. Nhất là nhân dân các nước nói nói tiếng Pháp và tiếng Anh. Trong đó, trên khán đài nổi bật khẩu hiệu “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ” và trên bầu trời Hà Nội có 2 chiếc máy bay Tia chớp P–38 của Mỹ sà xuống thấp nghiêng cánh chào. Bác Hồ đã mời Mỹ tham gia Ngày Quốc khánh (National Day) của Việt Nam.
2. Tuyên ngôn Độc lập được lấy từ cảm hứng Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Bác đã dự báo chính xác sự trở lại xâm lược của quân đội Pháp và linh cảm về sự can thiệp của Mỹ nên Bác đã trích dẫn các bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp.
![]() |
| Đoàn xe chở Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới vườn hoa Ba Đình - Ảnh tư liệu |
Năm 1945 nhiều nước khi ra đời đã có các bản Tuyên ngôn, gần gũi nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga nhưng Bác Hồ lại lấy cảm hứng từ Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Cách mạng 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những giá trị nhân văn, nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền, dân quyền trong 2 bản Tuyên ngôn này là căn bản, là phổ quát và vĩnh viễn bất biến của con người và thiết thực cho nhân dân Việt Nam. Những giá trị này đến nay vẫn là mục tiêu và mục đích của nhân loại.
Hơn nữa trích dẫn 2 bản Tuyên ngôn này Bác Hồ muốn nhắc nhở Pháp và Mỹ phải nhớ trách nhiệm của mình. Và rất có thể Bác Hồ đã gửi đến họ tinh thần hòa giải quốc tế mà ngay sau đó không lâu Bác đã thực hiện: “Tháng 3 năm 1946, Người sang thăm Pháp và ký Hiệp định 06/3/1946. Cũng dịp này Bác đã gặp ông George, Bí thư Đại sứ quán Mỹ ở Paris.
Chỉ trong 2 năm (1945 và 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thông điệp, thư, điện cho Tổng thống Mỹ. H. Truman, gửi 3 thư, điện cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ James Byrnes”(1).
3. Ngày Tết Độc lập 2/9/1945
Ngày 30/8/1945, Bác Hồ đã mời một số người đến nghe và góp ý kiến cho Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 31/8/1945, Bác kịp thời bổ sung, sửa chữa (8 lần) và hoàn chỉnh. Ngày 2/9/1945, lúc 2 giờ chiều tại Quảng trường Ba Đình (lúc đó là Puginier) đã vang lên bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng vạn quần chúng trong cuộc mít tinh lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không như các sự kiện tuyên cáo của các cuộc cách mạng hoặc giành chính quyền khác, chỉ được tổ chức trong phạm vi hẹp, các chính khách hoặc Chính phủ. Trong lịch sử Trung Quốc và nước ta, chiếu nhường ngôi hay thoái vị, chiếu thành lập vương triều mới của các ông vua đều do người khác đọc. Ngày Quốc khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 2/9/1945 do chính bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước quần chúng nhân dân đông hàng vạn người có khách quốc tế tham dự.
Lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 thể hiện truyền thống đoàn kết dân tộc và tôn giáo của dân tộc. Ngày Quốc khánh 2/9/1945 có đông đồng bào giáo dân tham gia, nhằm thể hiện sự đoàn kết giữa chính quyền và tôn giáo.
Tinh thần đoàn kết ấy thể hiện ở Chính phủ lâm thời được tổ chức ngày 28/8/1945 gồm có 18 người, gồm Bảo Đại và Giám mục Lê Hữu Từ làm Cố vấn Tối cao và các vị bộ trưởng thuộc các đảng phái khác nhau như Việt Quốc, Việt Cách, Đảng Dân chủ, Đảng Cộng sản, không đảng phái...
![]() |
| Không khí đón Tết Độc lập ở Mộc Châu - Sơn La. Ảnh: Đ.T |
Ngày Quốc khánh các cộng sự của Bác Hồ trong buổi lễ với trang phục lịch sự, Bác Hồ hòa đồng với các vị trong chính phủ gồm các vị quan lại của triều đình nhà Nguyễn đi theo cách mạng, các vị nho học với khăn xếp và áo chùng khăn đóng của giới nho sĩ Việt Nam, vốn được xem là truyền thống cùng các vị mặc đồ veston Tây và thắt cà vạt. Bác Hồ mặc bộ đồ kaki màu nhạt với cổ cao và mang đôi dép cao su trắng mà Bác chưa bao giờ mặc kể từ năm 1911 khi Bác lên tàu ra đi tìm đường cứu nước(2).
Và xúc động hơn là cuộc mít tinh bắt đầu bằng lá cờ đỏ sao vàng được 2 người con gái kéo lên, hai cô gái, một là người Kinh, một là người dân tộc thiểu số, đại diện cho cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, trong tiếng reo hò vang trời (hai thiếu nữ ấy là chị Dương Thị Thoa - người Kinh và chị Bế Thị Loan - người dân tộc Tày). Lịch sử đất nước Việt Nam hàng nghìn năm rực rỡ, bắt đầu từ Bà Trưng, Bà Triệu, hai người phụ nữ anh hùng hôm nay lại xuất hiện.
Điều thú vị nhất là nước nào cũng có ngày Tết, là dịp chuyển năm cũ sang năm mới và ngày thành lập nhà nước mới là Ngày Quốc khánh (National Day). Ở Việt Nam Tết là ngày lễ trang trọng, thiêng liêng nhất hằng năm từ nghìn xưa trong lịch sử văn hóa dân tộc. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sau Tết Nguyên đán là Tết Độc lập 2-9 được nhân dân cả nước đón nhận và hân hoan tổ chức long trọng.
------------------------
(1)(2) Xem Lê Đình Cúc, Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh và Nguyễn Du, Nxb. TT và TT, H. 2024, tr. 97.










Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin