Khổng Tử (551-479 TCN) từng nói: “Người Bách Việt miền Nam có lối sống, tiếng nói, phong tục tập quán ăn uống riêng... Dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta trồng kê và lúa mì. Họ uống nước bằng thứ lá cây trong rừng gọi là trà”.
Trà phải từ lá chè chế biến ra, dù là thủ công, sơ khai; nhưng thứ nước uống bằng lá chè, thì từ thuở Bách Việt phía Nam (Văn Lang) như Khổng Tử nói thì cho đến tận bây giờ.
Chè tươi, nước uống “quốc thủy”
Cho đến bây giờ, từ các chợ làng quê cho đến các chợ đầu mối ở các đô thị trên đất Xứ Nghệ đều có bán chè tươi. Và không phải chỉ như cố nhạc sĩ An Thuyên viết: “Trưa nắng hè, gọi nhau râm ran chè xanh” (Ca dao em và tôi) mà chè tươi uống suốt thời gian trong ngày, từ sáng sớm.
Bản sắc chè trong đời sống cộng đồng tóm tắt trong một chữ: “Tươi”. Đó là cách uống chè sơ khai nhất của nhân loại mà Việt Nam là đại diện. Chè tươi đưa Việt Nam trở thành quốc gia sở hữu một cung cách uống chè “độc nhất vô nhị” trên thế giới.
Cho đến bây giờ các bà nội trợ vẫn truyền khẩu, bí truyền lại cho con dâu, con gái cách chọn chè ủ, hãm chè tươi. Có thời, người Xứ Nghệ còn giã cả cành chè cuốn tròn trong ấm hãm cùng lá chè. Đây có thể coi khởi nguồn của nghệ thuật thưởng trà đương đại của người Việt.
Chè tươi từ trong lịch sử là loại chè, nước uống dân gian. Các tài liệu nghiên cứu để lại của người Pháp thời Việt Nam còn là thuộc địa của họ nói rõ đối tượng chủ yếu của chè tươi là nông dân, kể cả trung lưu. Tất nhiên, không chỉ người dân miền núi, trung du Bắc Bộ, châu thổ sông Hồng, Bắc miền Trung mà Hà Nội cũng dùng chè tươi.
“Ở Hà Nội vào mùa hè ở nhiều phố có những nhà giúp khách qua đường nước uống. Trước nhà có cái vại có nắp đậy, trên nắp để vài cái bát và cái gáo. Vại đựng nước vối hoặc nước chè tươi. Người qua đường uống nước chẳng cần cám ơn ai, vì nhà đóng cửa” (Nguyễn Công Hoan: Nhớ và ghi về Hà Nội). Có uống họ mới hãm cho người đi đường, có nơi bán chè tươi mới có cái để hãm.
Đất Kẻ chợ xưa, Hà Nội nay là nơi sinh cơ lập nghiệp của người tứ xứ, trong đó rất đông người Xứ Nghệ nên cho đến giờ vẫn đượm tính nhân văn, cộng đồng làng xã. Các chợ cóc ở “36 phố phường Hà Nội” vẫn bán chè tươi- tất nhiên là bán lá, không bán cả bó như ở chợ quê Nghệ An, Hà Tĩnh.
Người Nghệ có bí quyết hãm chè riêng, từng bà nội trợ có bí quyết riêng. “...Nước chè xanh Xứ Nghệ/Càng chát lại càng ngon” (Ai ơi vô Xứ Nghệ của Phạm Tuyên). Bát chè tươi (người Nghệ xưa gọi là đọi) phải óng ánh sắc vàng xanh, trong và thơm ngát hương. Bát nước chè như mang cả vũ trụ đến với người thưởng thức.
“Không gian ví giặm” có nhiều vùng tiểu khí hậu. Chè xanh từng vùng chất lượng khác nhau, cách hãm chè, dùng nước hãm chè cũng khác nhau. Có nơi hãm bằng nước mưa, nước giếng (mạch đồi đá ong)....; vùng Hương Sơn của Hà Tĩnh lại dùng nước sông Ngàn Phố. Chè Gay (Anh Sơn cũ) và chè Hương Sơn nức tiếng. “Ai về Hà Tĩnh thì về/ Mặc lụa chợ Hạ, uống chè Hương Sơn” (ca dao).
Câu thơ trong bài hát “Ca dao em và tôi” của An Thuyên: “Trưa nắng hè, gọi nhau râm ran chè xanh” nói lên điều lớn lao trong đời sống thôn dã là con người thấy cái tình bao la, cộng đồng ấp ủ, bọc đùm, tình làng nghĩa xóm trong màu nước vàng xanh, hương chè tinh khiết.
Gọi chè xanh là thứ nước uống “quốc thủy” của người Việt là vậy. Và cũng không chỉ là nước uống, chè xanh có một giá trị tinh thần thiêng liêng. Trong các nghi lễ Tổ tiên đều có nghi thức “dâng trà”. Bây giờ các tỉnh phía Bắc, nước vối có vẻ trở thành “quốc thủy”, riêng Xứ Nghệ, chè tươi vẫn vào thứ nước uống không thể thiếu hằng ngày.
Văn minh Trà Việt
Trong lịch sử, từ chè tươi đến trà khô (trà rời, trà bánh, trà Nam...) là một “hành trình” của đời sống. Cách gọi “trà Nam” để phân biệt với “trà Tàu”. Thuở sơ khai, chè tươi cũng đã vào chốn cung đình. Vua Minh Mạng (1791-1841) vị Hoàng đế thứ hai của Triều Nguyễn từng tâm đắc: “Vào lúc giữa hè uống một bát có thể đổ mồ hôi sảng khoái, cơ thể mát lạnh, đâu chỉ dừng lại ở việc hai nách cảm thấy gió thổi thôi đâu”.
Dần dần trà (chế biến từ chè) với các sản phẩm khác nhau thay thế chè xanh vào chốn cung đình phục vụ giới tinh hoa, thượng lưu. Thế kỷ XVII-XVIII ở Thăng Long đã xuất hiện những thương nhân Việt kinh doanh trà Việt. Ngoài ra còn có nhóm người Việt gốc Hoa đã được “Việt hóa”. Tất nhiên, trong lịch sử, rất nhiều trà Việt được vào cung vua, phủ chúa nhưng Nam trà (trà Việt) thường bị gọi nhầm, ngộ nhận là “trà Tàu”, một khi được thưởng thức theo nghi thức cung đình.
Trong nghệ thuật pha trà Đông phương nói chung và nghệ thuật trà cung đình Việt Nam nói riêng, nhìn chung giới thưởng trà đều thống nhất 5 yếu tố cơ bản, gồm: nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm, ngũ quần anh.
Người thưởng trà Việt Nam chắc chắn đều thuộc câu nói: "Bán dạ tam bôi tửu, Bình minh số trản trà. Nhất nhật cứ như thử, Lương y bất đáo gia" của Danh y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (1720-1791). Danh y Lê Hữu Trác gốc Hưng Yên nhưng thành danh ở vùng đất Hương Sơn của Hà Tĩnh. Đây cũng là một vùng chè nổi tiếng của Xứ Nghệ.
Trà ngon như danh trà Thái Nguyên nhưng cũng cần tuân thủ những quy chuẩn chung: Hương thanh khiết; Vị đậm đà, lưu giữ lâu nơi cuống họng (gọi là ngọt hậu); Hình thái, cánh trà cao quý, bắt mắt, khi pha không có vụn trà và cho sắc nước vàng sánh.
Trà ngon còn ẩn chứa tính trân quý và giá trị biên tế phi vật thể của nó từ nguồn gốc lịch sử văn hóa được tích lũy theo thời gian.
Ở vùng "đệ nhất danh trà” Thái Nguyên, nhiều năm qua việc tiếp cận từ góc độ văn hóa, phát triển nghệ thuật "Trà Thái Nguyên" được chính quyền các cấp quan tâm, đưa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây hướng đi đúng đắn, góp phần nâng tầm thương hiệu “Trà Thái Nguyên”. Điều thú vị là các đồi chè nức tiếng như Cầu Đá (HTX Chè La Bằng), Trại Cài (HTX Chè Trại Cài), các đồi chè của HTX Hảo Đạt, HTX Trà và du lịch cộng đồng Tiến Yên (Tân Cương)... đã biết tham gia chuỗi kinh tế - du lịch - văn hóa.
![]() |
| Niềm vui trên nương. Ảnh: Đào Tuấn |
Theo hướng ấy, các lớp tập huấn, trao đổi về văn hóa trà, các hội nghị về “văn hóa thưởng trà” đã được tổ chức. Tại các ngày văn hóa này, không chỉ các hợp tác xã giới thiệu sản phẩm; quan trọng hơn văn hóa trà, kỹ năng ứng xử, giao tiếp, nghệ thuật pha và thưởng trà, được đặc biệt lưu ý.
Trà Thái chưa được công nhận là di sản phi vật thể, nhưng “Tri thức về trồng và chế biến chè Tân Cương” đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Có thể nói, nghệ thuật thưởng trà ở Thái Nguyên ngày càng định hình. Xưa nay “tín đồ” của trà thường nghe nói đến trà đạo trong văn hóa xưa của Trung Hoa, Nhật bản. Hiện nay trà đạo, trong văn hóa trà Thái Nguyên cũng đã lan tỏa.
Đến Thái Nguyên, du khách nói chung, “tín đồ trà” nói riêng, không khó để nhận diện các quán thưởng trà sang trọng như Hương Vân, Hiên nhà 553, Tiến Yên Farmstay...
“Giống chè xa về đây bồng thơm nưng nức/Rễ râm ran ân ái đất lành/Để ra danh trà phưng phức” (Trà Tân Cương, thơ Nguyễn Đức Hạnh). Trà Thái đã “bước qua” vật thể trở thành phi vật thể, nên có lẽ phải dùng từ “thưởng lãm trà” mới đúng tinh thần. Hẳn vì thế, người pha trà mới có danh xưng “trà nương”.
Trà Việt nói chung, Trà Thái nói riêng đã có sự “trỗi dậy” đặc biệt, đã và đang vươn ra, vươn xa ra thị trường quốc tế. Hương vị trà đã trở thành “sứ giả” ngoại giao. Sinh thời trong lần đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổ chức “Tiệc trà quốc gia” (năm 2023).
Trà Thái đã và đang góp tiếng nói, tạo dấu ấn khẳng định và lan tỏa “văn minh trà Việt” trong chuỗi giá trị toàn cầu.








Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin