Tỉnh Thái Nguyên mới thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, nơi được xem như một “cửa ngõ” nối đồng bằng sông Hồng với vùng Việt Bắc. Trong lịch sử, vùng đất này không chỉ là căn cứ địa kháng chiến với ATK (an toàn khu) Định Hóa hay ATK Chợ Đồn, mà còn là một không gian văn hóa giàu truyền thống, là nơi sinh sống từ lâu đời của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Mông… Chính sự đa dạng tộc người ấy đã tạo nên một bức tranh mỹ thuật độc đáo, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và thẩm mỹ của cư dân vùng đất này.
Từ trong di sản văn hóa dân gian
Trong dòng chảy mỹ thuật Việt Nam, mỹ thuật các tỉnh miền núi phía Bắc thường được nhìn nhận qua những khía cạnh gắn với văn hóa dân gian và nghệ thuật ứng dụng như trang phục, họa tiết, đồ dùng nghi lễ… Tuy nhiên, ở vùng đất Thái Nguyên, nghệ thuật tạo hình nơi đây không chỉ dừng lại ở mức dân gian hay bản địa, mà còn phát triển trong không gian tín ngưỡng. Đặc biệt là trong mỹ thuật cách mạng và hiện đại, chẳng hạn như tượng đài, phù điêu, hội họa về đề tài chiến khu Việt Bắc.
Nói một cách khác, mỹ thuật vùng đất này là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa ký ức cộng đồng và những biểu tượng lịch sử của dân tộc.
Mỹ thuật Thái Nguyên là một chỉnh thể đa tầng, hài hòa giữa nghệ thuật tín ngưỡng, mỹ thuật dân gian đi vào đời sống và mỹ thuật cách mạng và hiện đại. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ các nghi lễ tôn giáo, sinh hoạt văn hóa dân gian, đến không gian tượng đài và bảo tàng, triển lãm, mỹ thuật của vùng đất này luôn phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên, cộng đồng và lịch sử.
![]() |
| Vọng Khúc. Tranh của cố họa sĩ Tuấn Vinh |
Một trong những giá trị nổi bật của mỹ thuật vùng đất này là tranh thờ dân gian. Người Tày, Nùng có dòng tranh thờ Then và tranh cúng Pụt, được vẽ trên giấy dó, màu sắc lấy từ khoáng chất (chì, son, đất đỏ) và thực vật (chàm, tràm). Đặc trưng của loại tranh này là bố cục phẳng, màu tươi rực rỡ, nhân vật thần thánh mang tính cách điệu… và thường được treo trong lễ Then hoặc các nghi thức cúng quan trọng.
Người Dao cũng có một hệ thống tranh thờ phong phú, dùng trong lễ cấp sắc và các nghi lễ tôn giáo. Các bức tranh thường khắc họa thần linh Đạo giáo, tổ tiên, cùng những biểu tượng vũ trụ quan như mặt trời, mặt trăng, các phương vị... Đáng chú ý, có nhiều bản sách cúng được minh họa bằng tranh còn được bảo lưu, tạo nên một phong cách “mỹ thuật sách nghi lễ” độc đáo. Đây là một minh chứng cho khả năng sáng tạo đồ họa dân gian của cư dân miền núi phía Bắc, với sự giao thoa giữa tín ngưỡng bản địa và ảnh hưởng của văn hóa Hán.
Mỹ thuật mang màu sắc tín ngưỡng, tôn giáo ở Thái Nguyên vừa kế thừa phong cách điêu khắc dân gian Việt, vừa mang sắc thái riêng biệt của cộng đồng tộc người. Từ đó hình thành nên một “ngôn ngữ tạo hình” đặc thù, phản ánh vũ trụ quan và nhân sinh quan của cư dân miền núi, đồng thời là nền tảng quan trọng cho sự phát triển của các loại hình mỹ thuật khác trong vùng.
Đi vào đời sống của cư dân
Trong đời sống thường nhật của các tộc người Tày, Dao, Sán Chỉ, Mông… ở Thái Nguyên trang phục chính là phương tiện thẩm mỹ và là một “bức tranh di động” về văn hóa tộc người. Nghệ thuật tạo hình trên vải được thể hiện thông qua kỹ thuật dệt thổ cẩm, thêu tay, ghép vải…, với những hoa văn hình học như hình vuông, tam giác, xoắn ốc, hoa lá cách điệu, chim thú hoặc mô típ vũ trụ như mặt trời, trăng sao...
Người Tày thường dùng màu chàm đen. Người Dao Đỏ lại nổi bật với mảng thêu dày đặc màu đỏ tươi, kết hợp họa tiết hình học cầu kỳ, tạo nên sức hút thị giác mạnh mẽ. Trong khi đó, phụ nữ Mông sử dụng kỹ thuật vẽ sáp ong (batik) trên vải lanh, hình thành các hoa văn trắng trên nền chàm, vừa tinh tế vừa độc đáo.
Các sản phẩm thổ cẩm như quần áo, khăn, túi, tấm trải… không chỉ mang công dụng đời thường, mà còn là những biểu tượng xã hội và văn hóa. Chúng thể hiện địa vị, lứa tuổi, tình trạng hôn nhân và thậm chí cả quan niệm tâm linh thông qua những hoa văn chống tà, cầu phúc. Mỹ thuật trên trang phục vì vậy vừa có giá trị thẩm mỹ, vừa là “ngôn ngữ nhận diện” của cộng đồng.
Đời sống vật chất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc nói chung, ở Thái Nguyên nói riêng, luôn gắn với gỗ, tre, nứa, mây... Trong quá trình chế tác đồ dùng, cư dân nơi đây đã thổi vào những họa tiết trang trí giản dị nhưng tinh tế. Các nong nia, giỏ đựng, gùi… thường được đan xen theo mô hình hình học như hình quả trám, mắt cáo, vừa chắc chắn vừa đẹp mắt. Trên một số nông cụ và đồ gỗ gia dụng như bát gỗ, thìa, hay thân cột nhà sàn... có thể thấy những nét khắc vạch hoa văn hình sóng nước, đường tròn đồng tâm, hoặc mô típ chim thú cách điệu.
Đây là dấu vết cho thấy mỹ thuật không tách rời lao động sản xuất, mà hòa nhập vào trong từng vật dụng hằng ngày.
Bên cạnh tranh thờ, nhiều vật phẩm nghi lễ cũng được trang trí giàu tính thẩm mỹ. Người Dao sử dụng cờ giấy ngũ sắc trong lễ cấp sắc, được cắt dán thành hình mặt trời, con người, hoặc động vật mang ý nghĩa biểu tượng. Người Tày và Nùng trang trí trống, chuông, đồ gốm bằng các mô típ vòng tròn, hoa thị. Đặc biệt, một số ngôi nhà sàn cổ còn lưu lại dấu vết trang trí kiến trúc nội thất như vách ngăn, xà nhà có hoa văn khắc gỗ, thể hiện quan niệm thẩm mỹ hòa hợp với thiên nhiên.
Vùng đất là trung tâm của nền mỹ thuật kháng chiến
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Thái Nguyên là thủ đô kháng chiến với ATK Định Hóa. Chính bối cảnh lịch sử này đã khiến vùng đất này trở thành trung tâm cho nhiều sáng tác mỹ thuật mang chủ đề cách mạng và kháng chiến. Các công trình như tượng đài Bác Hồ với nhân dân các dân tộc ở ATK Định Hóa là những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang giá trị lịch sử, vừa có phong cách tạo hình hiện đại với khối hình chắc khỏe, đường nét khái quát, nhấn mạnh tính biểu tượng tập thể.
Ngoài các tượng đài, nhiều bức tranh cổ động, tranh ký họa của các họa sĩ thời kháng chiến cũng ra đời tại vùng căn cứ này.
Các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Phan Kế An… từng để lại dấu ấn với các ký họa chiến khu Việt Bắc, trong đó Thái Nguyên là không gian sáng tác quan trọng. Những tác phẩm này vừa mang tính tư liệu lịch sử, vừa có giá trị nghệ thuật, lại vừa khẳng định vai trò của mỹ thuật trong việc khích lệ tinh thần kháng chiến. Bắc Kạn, một trong những địa bàn quan trọng của chiến khu Việt Bắc với ATK Chợ Đồn, cũng gắn liền với nhiều sự kiện cách mạng.
Một đặc điểm đáng chú ý là nhiều công trình mỹ thuật hiện đại ở Thái Nguyên và Bắc Kạn đã khéo léo lồng ghép với những mô típ mỹ thuật dân gian, tín ngưỡng truyền thống.
Mỹ thuật đương đại và triển vọng phát triển
Trong những thập niên gần đây, cùng với sự hình thành của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Thái Nguyên, vùng đất này đã trở thành điểm quy tụ nhiều hoạt động mỹ thuật đương đại như các triển lãm, điêu khắc ngoài trời, giao lưu nghệ sĩ.
Nhiều tác phẩm mỹ thuật hiện đại được lấy cảm hứng trực tiếp từ tranh thờ Tày, Dao, hay hoa văn thổ cẩm Mông, cho thấy khả năng chuyển hóa di sản văn hóa truyền thống thành nguồn chất liệu sáng tạo mới. Tại Thái Nguyên, nhiều triển lãm được tổ chức thường xuyên, từ cấp tỉnh đến khu vực như triển lãm mỹ thuật Việt Bắc và tham gia các kỳ triển lãm toàn quốc.
Tại Thái Nguyên có Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc, một số cơ sở đào tạo năng khiếu và các câu lạc bộ mỹ thuật, góp phần ươm mầm thế hệ trẻ. Đã xuất hiện nhiều tác phẩm có chất lượng cao, tham gia và đạt giải tại các triển lãm mỹ thuật toàn quốc và khu vực.
Đội ngũ nghệ sĩ ngày càng trẻ hóa, nhiều người tìm tòi phong cách sáng tác mới, tiếp cận kỹ thuật biểu đạt hiện đại. Một số nghệ sĩ được vinh danh bằng những giải thưởng cao quý, khẳng định vị trí mỹ thuật vùng đất này trong bức tranh chung của mỹ thuật Việt Nam.
Những đề tài được các nghệ sĩ quan tâm thể hiện là đời sống lao động và sản xuất như trồng chè, cây nông lâm nghiệp; cảnh sắc thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc; văn hóa và tín ngưỡng các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông… với trang phục, hoa văn, lễ hội. Ngoài ra, đề tài cách mạng, lịch sử, gắn với căn cứ địa Việt Bắc cũng rất được chú trọng. Một số tác phẩm gần đây của các nghệ sĩ phản ánh đô thị hóa và sự phát triển công nghiệp.
Nhiều nghệ sĩ đã thành danh từ vùng đất Thái Nguyên. Có thể kể đến nhà điêu khắc Hứa Tử Hoài (1942-2008) người dân tộc Nùng. Ông sinh tại Lạng Sơn, tốt nghiệp khoa Điêu khắc của Đại học Mỹ thuật Hà Nội, làm việc tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam và là một trong những hội viên sáng lập của Hội Văn học Nghệ thuật Thái Nguyên.
Hứa Tử Hoài là một trong những nghệ sĩ dân tộc thiểu số đầu tiên nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2001 với các tác phẩm như “Bác Hồ với thiếu nhi vùng cao”, “Bên bếp lửa”, “Tuổi thơ”, “Bi hùng”, “Sloong sli”, “Ác mộng”.
![]() |
| Chi hội Mỹ thuật tỉnh Thái Nguyên trong chuyến thực tế sáng tác tại Bắc Sơn - Lạng Sơn, năm 2020. Ảnh: Đào Tuấn |
Họa sĩ Đỗ Đức là người gắn bó với Thái Nguyên trong nhiều năm và sáng tác chủ yếu về đề tài Tây Bắc, Việt Bắc. Ông tốt nghiệp Khoa Mỹ thuật, Trường Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc năm 1970. Năm 1980, Đỗ Đức tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội với bài thi tốt nghiệp tranh khắc gỗ “Chợ vùng cao”. Tác phẩm này đã gây tiếng vang và được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đưa vào bộ sưu tập tranh khắc gỗ. Sinh năm 1945, từng làm việc tại NXB Văn hóa dân tộc rồi nghỉ hưu, cho đến nay, ông vẫn say mê sáng tác.
Một người có nhiều công lao trong việc phát triển mỹ thuật của vùng đất này là cố nữ họa sĩ Dương Thị Nội. Bà là Chi hội trưởng Chi hội Mỹ thuật Việt Nam đầu tiên ở Thái Nguyên trong giai đoạn 1987-1992. Sau đó có những tên tuổi như Đỗ Tố, Nguyễn Văn Chính, Đặng Cử, Tuấn Vinh, Thế Hòa, rồi Nguyễn Gia Bảy… lần lượt nối tiếp, góp phần định hình hoạt động hội họa Thái Nguyên đến hiện nay.
Ngoài ra có thể kể đến các họa sĩ thuộc nhiều thế hệ như Hoàng Báu, Nguyễn Văn Thao, Nguyễn Quang Minh, Dương Tấn, Trần Quang Tú, Đạt Râu (tức Phương Văn Đạt), Lê Thái, Đoàn Xuân Dương, Hoàng Minh Tiến, Nguyễn Duy Nhiếp, Nguyễn Thị Thành, Trịnh Ngọc Hà, Giang Nam, Trần Ngọc Kiên, Mạnh Sáng, Lý Dược, Lường Học, Trần Hằng, Nguyên Tố... Các họa sĩ này đều thường xuyên sáng tác và góp mặt ở nhiều triển lãm toàn quốc và khu vực.
Nhiều giải thưởng của Hội Mỹ thuật Việt Nam, của các cuộc thi, các cuộc vận động sáng tác trong khu vực cũng như của các cơ quan, tổ chức đã được trao cho nhiều họa sĩ của Thái Nguyên.
Tuy vậy, vẫn có những khó khăn và hạn chế trong việc phát triển mỹ thuật ở Thái Nguyên. Đội ngũ họa sĩ chuyên nghiệp còn thiếu, hoạt động sáng tác còn chưa đều tay. Cũng rất thiếu cơ sở hạ tầng cho mỹ thuật như phòng tranh, không gian trưng bày, bảo tàng mỹ thuật chuyên biệt. Kinh phí đầu tư và hỗ trợ cho nghệ sĩ còn hạn chế, công tác quảng bá, truyền thông cho mỹ thuật chưa thực sự hiệu quả. Bản thân một số họa sĩ còn hạn chế trong việc giao lưu, tự quảng bá cho tác phẩm của chính mình trên thị trường nghệ thuật và khó khăn trong việc chọn lựa ngôn ngữ biểu đạt khi sáng tác để tạo nên phong cách, dấu ấn riêng.
Mặc dù vùng đất này hiện chưa có nhiều họa sĩ chuyên nghiệp nếu so với các thành phố lớn khác, song vẫn cần phải ghi nhận nỗ lực của các nghệ sĩ địa phương trong hoạt động mỹ thuật ứng dụng và lưu giữ nghệ thuật dân gian.
Các nghệ nhân dân tộc Tày, Dao, Mông… cũng tham gia sáng tác hoa văn, chạm khắc, tạo hình trong đời sống, đóng góp cho diện mạo mỹ thuật địa phương. Nhưng về lâu dài, cần phải phát triển nguồn nhân lực như hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng họa sĩ trẻ; khuyến khích sinh viên mỹ thuật gắn bó với quê hương. Đẩy mạnh triển lãm và giao lưu, duy trì định kỳ triển lãm mỹ thuật Việt Bắc; mở rộng giao lưu trong và ngoài nước, phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thiết kế đồ họa, quảng bá du lịch văn hóa.
Cần đầu tư hạ tầng nghệ thuật như xây dựng phòng trưng bày, không gian sáng tạo, gắn kết nghệ sĩ và công chúng. Cần có các chính sách hỗ trợ, quan tâm đãi ngộ, tạo điều kiện để nghệ sĩ sáng tác, tham gia các trại sáng tác và triển lãm toàn quốc, trong cũng như ngoài nước.
Mỹ thuật thời đương đại của Thái Nguyên là sự kế thừa và mở rộng từ ký ức chiến khu Việt Bắc đến công trình công cộng, từ tranh ký họa kháng chiến đến mỹ thuật đương đại. Nó minh chứng cho khả năng giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, đồng thời đặt nền tảng cho một hướng phát triển mới gắn với công nghiệp sáng tạo và du lịch văn hóa.
Nhìn chung, mỹ thuật của Thái Nguyên mang một số đặc điểm nổi bật: Đó là tính gắn kết với đời sống cộng đồng. Mỹ thuật không tách rời sinh hoạt, mà hiện diện trong trang phục, nhà ở, công cụ lao động, nghi lễ tín ngưỡng.
So sánh với vùng Đông Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn) thì mỹ thuật Thái Nguyên có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt ở tranh thờ Tày, Nùng, Dao và nghệ thuật trang phục. Tuy nhiên, do Thái Nguyên từng là trung tâm căn cứ kháng chiến, nên mỹ thuật hiện đại với tinh thần cách mạng ở đây có vị thế nổi bật hơn.
So sánh với Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Điện Biên) thì mỹ thuật Tây Bắc nổi bật với lối kiến trúc cộng đồng gắn với dân tộc Thái, Khơ Mú, Hà Nhì. Trong khi đó, Thái Nguyên lại thiên về tranh thờ, điêu khắc và trang trí thổ cẩm, mang tính “đồ họa” nhiều hơn là “tạo khối” như vùng Tây Bắc.
Nếu đồng bằng Bắc Bộ có mỹ thuật đình làng tinh xảo, tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, thì vùng Thái Nguyên vẫn giữ lối chạm khắc mộc mạc, phóng khoáng; tranh thờ và trang trí thổ cẩm giản lược hơn, nhưng đậm tính biểu tượng và tâm linh. Có thể nói, mỹ thuật miền núi ở đây không hướng đến sự cầu kỳ, mà tập trung thể hiện quan niệm vũ trụ và con người một cách trực diện, mạnh mẽ.
Thành tựu mỹ thuật của vùng đất Thái Nguyên không chỉ là những sản phẩm sáng tạo nghệ thuật, mà còn là những chứng tích văn hóa và lịch sử góp phần bảo tồn bản sắc tộc người trong bối cảnh giao lưu hội nhập.
Đó cũng là nguồn tư liệu quý cho nghiên cứu dân tộc học và lịch sử mỹ thuật Việt Nam, cũng là những gợi ý quý giá để ứng dụng di sản mỹ thuật vào thiết kế sản phẩm, du lịch cộng đồng và mỹ thuật đương đại. Mỹ thuật vùng đất này vừa mang tính bản địa, vừa có khả năng lan tỏa quốc gia, không chỉ phản ánh đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cư dân miền núi, mà còn đóng góp vào tiến trình chung của mỹ thuật Việt Nam.









Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin