Nghĩa tình của những người ở lại!

Hữu Minh 11:32, 17/09/2025

Những ngày này, đất nước đang kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9. Thủ đô Hà Nội rực rỡ cờ hoa trên gương mặt mỗi người đều rạng ngời niềm vui. Hà Nội sáng mùa thu dịu mát và đẹp đến nao lòng. Cũng thời khắc ấy, tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III nằm trên phố Phan Kế Bính, chúng tôi thực hiện và chứng kiến một hoạt động vô cùng ý nghĩa và cần thiết: Bàn giao và tiếp nhận bản gốc cuốn nhật ký của Anh hùng Liệt sĩ Vũ Xuân, người con ưu tú của Thái Nguyên…

PGS, TS khoa học Nguyễn Thị Trâm-bạn học cấp 3 với liệt sĩ Vũ Xuân phát biểu cảm tưởng.
PGS, TS khoa học Nguyễn Thị Trâm, là bạn học cấp 3 với liệt sĩ Vũ Xuân phát biểu cảm tưởng.

Bên giao là ông Vũ Thành, em trai Liệt sĩ Vũ Xuân; Đại tá Đỗ Hà Thái, đồng đội và là người lưu giữ kỷ vật; Đại tá Nguyễn Tiến Hải, người đã biên tập nhật ký và Nhà xuất bản QĐND xuất bản thành sách vào năm 2005; nhà báo Phan Hữu Minh, tác giả kịch bản và đạo diễn sản xuất 10 tập phim với cốt truyện là nội dung cuốn nhật ký.

Chứng kiến lễ bàn giao hôm nay còn có vị khách đặc biệt: PGS.TS, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới Nguyễn Thị Trâm, người con của quê hương Võ Nhai, là bạn học cùng lớp cấp III Lương Ngọc Quyến với Liệt sĩ Vũ Xuân… Bên nhận là Giám đốc Trần Việt Hoa và các cộng sự mẫn cán của Trung tâm.

Trước sự kiện đặc biệt quan trọng và ý nghĩa này, tôi thấy cần một lần nữa nói kỹ hơn những gì mình biết xung quanh câu chuyện về Liệt sĩ Vũ Xuân và cuốn nhật ký chiến tranh anh để lại, nhất là thời khắc chúng ta đang kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9. Hơn nữa, từ hôm nay, cuốn nhật ký của Liệt sĩ Vũ Xuân và tới đây là bộ phim 10 tập “Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân” và một số bài báo sẽ được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III…

Để cuốn nhật ký đến được với chúng ta, người tôi muốn nhắc đến trước tiên chính là Đại tá CCB Đỗ Hà Thái- bạn chiến đấu, người đã chôn cất và một mình đưa hài cốt Liệt sĩ Vũ Xuân từ Kiên Giang xa xôi về quê hương Thái Nguyên. Ông đã lưu giữ cuốn nhật ký suốt 31 năm và sau này trao lại cho gia đình liệt sĩ cuốn nhật ký quý giá ấy. Đồng thời, ông cũng bền bỉ suốt hơn 10 năm để tìm kiếm, đề xuất danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho Liệt sĩ Vũ Xuân.

20 năm trước, năm 2005, độc giả, khán thính giả được biết tới một cuốn nhật ký chiến tranh đặc sắc mà người viết là một cán bộ quân đội từng trải - đồng chí Vũ Xuân, Chính trị viên Tiểu đoàn 2311, thuộc Đoàn 6 Pháo binh Quân giải phóng miền Nam. Cuốn nhật ký được xuất bản sau nhật ký “Mãi mãi tuổi 20” của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm nhưng cuốn nhật ký Vũ Xuân được viết bởi một sĩ quan chính trị nên rất cuốn hút bởi tính tư tưởng và hoài bão của tuổi trẻ về một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc- giai đoạn đánh và thắng Mỹ.

Cuốn nhật ký của Liệt sĩ Vũ Xuân đã chạm đến trái tim của nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói riêng và người dân cả nước nói chung khi được đội ngũ những người làm báo tỉnh Thái Nguyên – quê hương của anh – tái hiện lại qua bộ phim tài liệu dài 10 tập. Bộ phim đã tái hiện chân thực hành trình 11 năm hành quân và chiến đấu của Liệt sĩ Vũ Xuân. Cuốn nhật ký tái hiện sống động và chân thực những năm tháng gian khổ, những hy sinh anh dũng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, các đài địa phương đã phát sóng nhiều lần 10 tập phim “Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân”.

Cuốn nhật ký đã khắc họa rõ nét lòng yêu nước, trách nhiệm với Tổ quốc của Liệt sĩ Vũ Xuân khi anh viết:“Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình, của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này...”. Đằng đẵng 11 năm trời, từ khi lên đường nhập ngũ cho đến ngày hy sinh (13-5-1974), đồng chí Vũ Xuân có 3 lần hành quân bằng đôi chân trần, chiến đấu trên đất nước Việt Nam, nước bạn Lào và Campuchia: Từ Thái Nguyên - Sơn Tây - Hà Tĩnh - Quảng Bình - Quảng Trị - vượt Trường Sơn – StungTreng – Carachie - Công Pông Chàm - Công Pông Chnăng - Căm Pốt - Tà Keo - Châu Đốc - U Minh Thượng – U Minh Hạ - Cà Mau...

Nhật ký để lại những trang viết và câu nói đầy xúc động, trở thành nguồn cảm hứng và phương châm sống cho nhiều thế hệ người Việt Nam: “Tôi muốn một câu nói được vang lên bên tai thế hệ sau là: Đừng làm hoen ố máu của những người đi trước”.

Từ thực tế cho thấy, cuốn nhật ký, các bài báo và 10 tập phim đã tạo hiệu ứng rất mạnh trong đời sống xã hội. Đồng chí Vũ Xuân với đôi chân trần 3 lần hành quân vào chiến trường gần 10.000 cây số được khắc họa rõ nét trong từng dòng nhật ký.

Những miền đất anh qua, những con người anh gặp, những trải nghiệm trên đất bạn Lào, Campuchia; những trận chiến khốc liệt, nỗi nhớ quê hương, người thân; suy nghĩ về cuộc chiến đấu chính nghĩa của cả dân tộc; triết lý về lý tưởng sống của thanh niên… đều được anh ghi chép tỉ mỉ vào nhật ký… Cuốn nhật ký luôn nằm trong ba lô cho đến ngày anh hy sinh tại Đồn Kênh 2, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang (cũ) nay thuộc xã Vĩnh Tuy, tỉnh An Giang…

Lại nói về Đại tá Đỗ Hà Thái (người gìn giữ cuốn nhật ký 31 năm), sinh năm 1950 tại huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (cũ), kém Liệt sĩ Vũ Xuân 4 tuổi, lớp bộ đội đàn em. Đại tá Đỗ Hà Thái nhập ngũ năm 1967, sau khóa đào tạo cán bộ trung đội, anh vào chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị; giữa năm 1969 anh được cử ra Hà Nội học lớp chuyển binh chủng. Anh Xuân cũng từ chiến trường ra học. Anh Thái và anh Xuân đều được điều về Binh chủng Đặc công vào tháng 4-1970. Ngày 10-1-1971, anh Thái và anh Xuân cùng Tiểu đoàn Đặc công 11 mang mật danh 2279 hành quân vào chiến trường.

Theo nhật ký, Vũ Xuân ghi: “Nam tiến lần thứ 3 này chặng đường sẽ rất gian truân”, “ Đời anh lính không có gian khổ nào giống gian khổ nào thật. Lần mò trong rừng đêm gần 3 tiếng đồng hồ, dừng nghỉ thì không an toàn, mà đi thì vai đeo ba lô 30kg leo đèo, lội suối, lần rừng đêm…”.

Chiến trường T3 (mật danh vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ ) thiếu cán bộ, nhất là cán bộ chính trị, Đỗ Hà Thái, Vũ Xuân xung phong về Đoàn 6 Pháo binh sau gần nửa năm chiến đấu tại Tiểu đoàn Đặc công... Vậy là anh Thái, anh Xuân lại tiếp tục chiến đấu bên nhau và cùng nhau thực hiện lời thề thứ 7- Nghĩa tình đồng đội.

Những đêm trăng Đồng Tháp Mười, mắc võng giữa rừng tràm, xa quê, nhớ mẹ… Những mùa mưa dai dẳng mấy tháng trời vùng U Minh Thượng, chịu vây ráp, đói khát dễ hơn là chịu nỗi nhớ quê, nhớ mẹ. Họ hẹn với nhau khi không được trở về bằng người trần mắt thịt hãy giúp nhau yên nghỉ bên mẹ, bên quê… Đồn Kênh 2 thuộc xã Vĩnh Thắng, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang ở vị trí rất trống trải, lại sát bờ kênh nên quân ta khó tiếp cận. Cấp trên biết rõ khó khăn này song vẫn hạ quyết tâm phải "nhổ" bằng được để mở thông con đường tiếp tế trên sông của ta tại ngã ba Di Hạng. Đêm đó Vũ Xuân cùng Tiểu đoàn trưởng Đinh Huy Tỵ chỉ huy bộ đội vượt kênh ém sát đồn.

Các đại biểu trong lễ tiếp nhận bản gốc Nhật ký Vũ Xuân.
Các đại biểu trong lễ tiếp nhận bản gốc Nhật ký Vũ Xuân.

Anh Tỵ sau này kể lại với tôi: "Yếu tố bất ngờ không còn, chúng tôi vượt kênh vô cùng khó khăn, chúng tôi đã phải bắn tới 20 quả đạn cối 120 ly mà chưa tiêu diệt được đồn giặc. Tang tảng sáng, chúng tôi nổ súng tiêu diệt 2 lô cốt, lô cốt cuối cùng vẫn ngoan cố chống cự. Đây có thể nói là trận đánh khó khăn, ác liệt và cực kỳ anh dũng nhưng cũng tổn thất nhiều của đơn vị. Căm thù dồn nén vì nhiều đồng đội hy sinh, anh Xuân vùng dậy ôm B40 bắn liên tục 4 quả vào lô cốt địch, rồi lại dùng AK bắn tiếp. Một loạt đạn từ lô cốt, anh Xuân ngã xuống, hôm đó là ngày 13-5-1974…". Nhật ký của anh Xuân có nhiều câu linh cảm… Trước đó anh đã viết: “Con thương mẹ nhiều lắm mẹ của con ơi! Mẹ mong, mẹ chờ thằng con trai của mẹ trở về. Bố ơi! chắc bố cũng nghĩ rằng, nếu chết con sẽ chết cho lẫm liệt phải không bố”.

Đại tá Đỗ Hà Thái – người đồng đội từng trực tiếp chôn cất Liệt sĩ Vũ Xuân bên bờ kênh thuộc vùng Kênh Hãng – đã gìn giữ cuốn nhật ký của anh suốt 31 năm trời. Chính ông là người lặng thầm bảo vệ kỷ vật thiêng liêng ấy cho đến khi nó được nhắc nhớ, trở thành một chứng tích xúc động của thời chiến. Mãi đến năm 2006, tôi mới chính thức gặp Đại tá Đỗ Hà Thái tại Cần Thơ, trong chuyến đi đầu tiên vào Quân khu 9, Kiên Giang để thực hiện bộ phim Hành trình theo nhật ký Vũ Xuân. Đại tá Đỗ Hà Thái là một con người gần gũi, tận tâm, cẩn trọng và đầy tinh thần trách nhiệm – đúng phẩm chất của một người lính từng đi qua khói lửa chiến tranh.

Người thứ hai tôi muốn nhắc đến là Đại tá, Cựu chiến binh Nguyễn Tiến Hải – biên tập viên của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Anh là người có con mắt tinh tường, kiến thức sâu rộng và cảm nhận nhạy bén. Trong một chuyến công tác tại Quân khu 9, khi nhận được cuốn nhật ký của Liệt sĩ Vũ Xuân từ Đại tá Đỗ Hà Thái, anh đã ngay lập tức nhận ra giá trị đặc biệt của nó. Với anh, đây không chỉ là nhật ký của một người lính, mà là lời tự sự của người cầm cờ, người giữ linh hồn của đơn vị. Không chỉ thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước, nhiều câu chữ trong nhật ký còn mang ý nghĩa như phương châm sống, phương châm hành động cho cả một thế hệ. Nhờ vậy, công tác tổ chức bản thảo đã được anh thực hiện một cách hấp dẫn, linh hoạt và đầy tâm huyết.

Khi cuốn Nhật ký được phát hành, ngay lập tức tạo hiệu ứng xã hội rất cao. 18 năm qua, mỗi khi bộ phim xuất hiện trên sóng, khán giả đều mong đến tập 7 để nghe Đại tá Nguyễn Tiến Hải phát biểu.

Do di chứng của chiến tranh, hiện nay Đại tá Hải không nhìn được, đọc được. Tôi lên mạng xã hội tìm bộ phim. Vẫn vẹn nguyên trọn bộ do VTV1 phát lần thứ 7 vào năm 2013, lấy tập 7 để Đại tá Hải nghe lại… Anh ứa nước mắt xúc động nghẹn ngào.

Còn tôi – đã hơn 20 năm trôi qua – mỗi lần nhớ lại, tôi luôn có cảm giác rằng mọi chuyện xảy đến đều như có một mối cơ duyên. Riêng việc thực hiện 10 tập phim Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân đối với tôi không chỉ là một nhiệm vụ nghề nghiệp, mà còn là một cơ duyên, nợ với nghề.

Chuyện bắt đầu từ năm 1981, khi tôi rời Thông tấn xã Việt Nam để chuyển về làm phóng viên cho tờ báo của Đảng bộ tỉnh. Khi ấy, gần nhà tôi có bác Nguyễn Vũ- bộ đội chuyển ngành, đang công tác tại Trường Đại học Y Việt Bắc. Một hôm bác Vũ bảo tôi: "Nhà báo phải viết ngay, họ xử thế tệ quá. Một sĩ quan quân đội hy sinh tại chiến trường, vì nghĩa tình, đồng đội chuyển hài cốt về quê mẹ. Chính quyền cứng nhắc, hành chính, hoạnh hoẹ đủ kiểu, mãi mới chịu làm lễ đưa vào nghĩa trang liệt sĩ… Tội nghiệp liệt sĩ quá. Cựu chiến binh rồi nhân dân tiểu khu đấu tranh mãi mới được".

Câu chuyện về cách cư xử cứng nhắc, máy móc và có phần vô tâm của chính quyền tiểu khu nơi tôi ở ngày ấy rồi cũng dần rơi vào quên lãng. Mãi đến năm 1998 – khi đó tôi đang là Phó Tổng Biên tập Báo Thái Nguyên – trong một chuyến công tác cùng các cán bộ, phóng viên vào Cần Thơ, sự việc bất ngờ được gợi lại. Hôm ấy, trong bữa cơm tối tại bến Ninh Kiều, một vài sĩ quan của Quân khu 9, biết có đoàn Báo Thái Nguyên, đã đến bắt chuyện, giao lưu. Một đồng chí tên Thắng xúc động nhắc: “Thái Nguyên có liệt sĩ Vũ Xuân, hy sinh anh dũng lắm. Vừa rồi có một người bạn chiến đấu đã âm thầm đưa hài cốt anh về quê”. Tôi cảm ơn anh Thắng và nói với anh em phóng viên rằng đây là một đề tài báo chí rất đáng quan tâm. Nhưng rồi, như bao câu chuyện khác, nó cũng dần trôi qua theo dòng thời gian...

Cho đến một sáng tháng 5 năm 2006, khi tôi bất ngờ được một sĩ quan công tác tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân trao tận tay cuốn Nhật ký Vũ Xuân vừa được in. Tôi gần như lặng người, chỉ kịp thốt lên: Nợ nghề nghiệp là đây…

Từ đó, như mọi người đã biết, rất nhiều hoạt động truyền thông, tri ân, đền ơn đáp nghĩa, cũng như phong trào học tập tấm gương Liệt sĩ Vũ Xuân đã lan tỏa sâu rộng. Trong số đó, có cả việc sản xuất bộ phim tài liệu dài 10 tập – Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân – mà tôi và các đồng nghiệp đã có cơ duyên thực hiện.

Đại tá Đỗ Hà Thái ghé tai tôi nói nhỏ: - Hữu Minh viết bài báo sâu một chút đi, in báo in, có dịp gửi vào đây lưu trữ cho những đời sau, chúng mình đều già cả rồi! Tôi dạ!

Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Thái và đồng đội của anh vẫn chưa được nghỉ. Anh Thái chịu ơn sông nước Cửu Long, ở lại lập gia đình cùng người con gái Hậu Giang, sinh con, tham gia các hoạt động sau khi nghỉ hưu… Rồi chiến tranh biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, Đại tá Đỗ Hà Thái tiếp tục những chặng đường hành quân. Còn Liệt sĩ Vũ Xuân thanh thản yên nghỉ nơi bờ kênh xa vắng, ngào ngạt hương tràm. Giữ lời thề đồng đội, thương mẹ liệt sĩ tuổi già mòn mỏi ngóng con, ngày 10/5/1980, anh Thái quyết định đưa anh Xuân về.

Từ nhà ở Long Mỹ, Cần Thơ, anh Thái chèo tay chiếc xuồng nhỏ đi Kênh Hãng thuộc Gò Quao, Kiên Giang. Gặp được anh Nam Long, du kích xã trước đây, nhờ giúp đỡ và quay trở lại nhà ở Long Mỹ chuẩn bị. Sáng 11/5/1980, anh Thái trở lại mộ phần anh Xuân, nơi này dân cư thưa thớt, hoang vắng, không thấy anh Nam Long (sau này biết anh Long đi họp đột xuất), chiều xuống nhanh, anh Thái một mình làm đào, xúc. Sáu giờ tối thì tới ván thiên. Anh Thái sửng sốt, 6 năm nằm trong lòng đất, trong nước lạnh, xương cốt của anh Xuân còn nguyên vẹn, nóng ấm trong bàn tay anh Thái… Đêm U Minh hoang vắng, mưa gió nổi lên gào thét dữ dội như một lần nữa đưa tiễn anh Xuân. Vừa chèo xuồng, anh Thái vừa khấn “Anh Xuân ơi! chúng mình đi hè. Bom đạn chúng mình chẳng sợ, mưa gió này nghĩa lý gì”. Hai giờ sáng về đến nhà, ăn vội bát cơm vợ chờ, tang tảng sáng anh ôm ba lô có hài cốt của anh Xuân lên Thành phố Hồ Chí Minh, ở nhờ gia đình người quen. Đêm ấy anh ôm chặt anh Xuân mà ngủ.

Sáng hôm sau (13-5), ngày giỗ lần thứ 6 của anh Xuân, anh Thái ôm hài cốt đồng đội ra sân bay Tân Sơn Nhất lên chiếc phi cơ AN 26 ra Hà Nội. Kỳ lạ, chuyến bay xuất phát chậm, bay vài trăm cây số lại quay lại sân bay và bay theo chiếc TU104 vòng qua Cam Pu Chia, Lào, về Hà Tĩnh rồi ra Hà Nội. Ôm khư khư đồng đội trong lòng, anh Thái nghĩ: Anh Xuân ơi! Có phải anh muốn trở về bằng con đường chúng mình đã đi? Máy bay thông báo thời tiết sân bay Nội Bài xấu chứ trong này có xấu đâu? Anh em mình về với mẹ đúng ngày nhé!… Anh Thái về đến ga Đồng Quang trong chuyến tầu chiều muộn hôm đó rồi nhắn gia đình ra đón, đó là ngày 13/5/1974… Giữa năm 2007, chúng tôi tổ chức duyệt bộ phim ký sự tài liệu Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân tại Tòa soạn Báo Thái Nguyên, có đông đủ đại diện gia đình liệt sĩ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Kim, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, đồng chí Trịnh Thị Cúc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, các CCB là đồng đội của Liệt sĩ Vũ Xuân.

Đến tập 6 mô tả sự hy sinh lẫm liệt của Liệt sĩ Vũ Xuân, thành tích to lớn của Đoàn 6 pháo binh và Tiểu đoàn 2311, ý kiến ghi nhận công lao của Tư lệnh Quân khu 9- Trung tướng Trần Phi Hổ, mọi người đều có chung suy nghĩ: Sao Đoàn pháo binh, sao Liệt sĩ Vũ Xuân lại chưa được phong tặng danh hiệu Anh hùng? Đại tá Đỗ Hà Thái thì bảo: Vậy là tôi còn phải đi. Còn tôi - tác giả chính của bộ phim thì cho rằng phim còn phải tiếp vài tập…

Đại tá Đỗ Hà Thái quê gốc Bắc Giang, vợ con ở Hậu Giang, Cần Thơ ra vào liên tục, lúc tìm đồng đội, xin tư liệu, chữ ký, lúc tham dự hội thảo, tọa đàm… Còn tôi cũng tới 3 lần đi gặp anh Phan Tiếp Yến, Đại đội trưởng Đại đội 3 (lúc đó đồng chí Vũ Xuân là Chính trị viên Đại đội) ở Rạch Giá, gặp anh Tỵ ở Ninh Bình, anh Thịnh ở Thanh Hóa, tướng nghỉ hưu Tư Niên ở Trà Nóc (Cần Thơ); Làm việc với các anh Phạm Ngọc Soa, Phạm Xuân Thọ, Trịnh Văn Khắp ở Đoàn 6 pháo binh, các cơ quan của Quân khu để có thêm tiếng nói… Khi khai thác tư liệu tại Đoàn 6 Pháo binh,chúng tôi choáng ngợp: Thành lập năm 1963, tính đến ngày giải phóng 1975, đơn vị đã đánh 3.791 trận lớn, nhỏ; tiêu diệt 23.959 tên địch (trong đó có 922 tên Mỹ), bắn rơi 1.796 máy bay, phá hủy 319 khẩu pháo… Vậy mà cho đến thời điểm ấy chỉ có đồng chí Phan Công Nam (Từ đơn vị khác chuyển về là Anh hùng LLVT)...

Ngày 29/4/2015, tôi và Đại tá Đỗ Hà Thái đều được Đoàn 6 Pháo binh mời về TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang  (cũ) dự lễ Truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT cho Liệt sĩ Vũ Xuân… Vậy là sau 41 năm, sau gần 10 năm cuốn nhật ký được công bố và hành trình tiếp theo của đồng đội, niềm vui đã đến khá trọn vẹn. Đại tá Đỗ Hà Thái chuyển lại cho gia đình những kỷ vật cuối cùng của Liệt sĩ Vũ Xuân. Riêng tôi hiểu đến lúc này anh đã thực hiện trọn vẹn lời thề thứ 7 - lời thề đồng đội… Ngồi dưới khán đài nhìn lên, tôi bắt gặp nụ cười mãn nguyện của anh, trào nước mắt khi thấy anh gầy nhiều sau những ngày đi lại vất vả… Gặp lại vị tướng già Trần Văn Niên (Tư Niên) – một chỉ huy can trường thời chống Mỹ, tôi đem trăn trở của tôi và nhiều người để hỏi ông… Mắt vị tướng già ngấn lệ: Chúng tôi luôn trong bưng biền, động viên nhau chiến đấu giỏi mà không mảy may nghĩ tới tôn vinh cho anh em, cho đơn vị. Thoáng nhìn chiếc máy quay phim, ông nói tiếp: Tôi đã coi phim Hành trình theo Nhật ký Vũ Xuân rồi, cảm động lắm. Mọi người cũng biết về Đoàn 6. Chúng tôi thật hạnh phúc.

Hôm nay, sau mấy chục năm đi theo sự kiện,chúng tôi mới được gặp người bạn học của Liệt sĩ Vũ Xuân, người con của Võ Nhai - Nhà khoa học nông nghiệp hàng đầu Việt Nam, bà Nguyễn Thị Trâm. Chị được đánh giá trong hồ sơ phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Giải thưởng Kovalevskaia: “PGS.TS Nguyễn Thị Trâm là nhà khoa học thành công khi liên tiếp tìm và phát triển được nhiều giống lúa lai năng suất cao,chất lượng tốt…”. Bà tâm sự: Trở lại Lương Ngọc Quyến sau nghỉ hè, lớp tôi mới biết ngày 3-7-1963, Vũ Xuân và mấy bạn đã nhập ngũ đi đánh Mỹ. Như bao chàng trai khác, bạn Xuân mang theo lý tưởng của lớp thanh niên thời ấy chiến đấu cho độc lập, thống nhất. Còn chúng tôi cũng cống hiến trong những lĩnh vực đất nước rất cần…

Chúng ta tự hào về quê hương, tự hào về thế hệ anh hùng của anh Xuân, chị Trâm biết nhường nào!

Hà Nội, Quốc khánh 2025