Píc Cáy – Căn cứ cách mạng trong lòng dân

Ô Kim Phòng 17:15, 16/09/2025

Píc Cáy, thuộc thôn Khuổi Lùng, xã Thượng Minh, tỉnh Thái Nguyên, từ lâu là bản định cư của người Dao nằm ở lưng chừng núi Phja Bjoóc – còn gọi núi Hoa, núi Cứu quốc. Tên Píc Cáy dịch sang tiếng Việt là “cánh gà”, gắn với dáng núi giống đôi cánh gà trống oai vệ. Ẩn mình giữa mây núi, bản Dao heo hút ấy từng trở thành điểm tựa vững chắc cho phong trào Nam tiến, nơi in dấu nhiều sự kiện quan trọng của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Lời thề giữa núi rừng Phja Bjoóc

Tháng 9 năm 1943, một mũi Nam tiến do ông Nông Văn Quang phụ trách đã từ Lủng Cháng, xã Hà Hiệu (nay là xã Phúc Lộc, tỉnh Thái Nguyên) đưa "ngọn gió cách mạng" lên Phja Bjoóc. Từ những cơ sở cách mạng đầu tiên ở Phiêng Khăm (xã Yến Dương cũ, nay là xã Thượng Minh), "ánh sáng cách mạng" đã tiến về Vằng Kheo rồi sang Píc Cáy vận động quần chúng. Người đầu tiên tham gia Hội Việt Minh chính là Phó quản chiểu Triệu Đức Vần – người có uy tín lớn trong cộng đồng.

Quang cảnh đường lên Píc Cáy
Một góc khu vực thôn Píc Cáy.

Ngay tại nhà ông Vần, buổi lễ chặt đầu gà, lấy máu ăn thề được tổ chức. “Nếu ai phản bội cách mạng, sẽ bị xử như con gà hôm nay” – lời thề vang lên giữa rừng sâu. Cách làm này vừa phù hợp với phong tục người Dao, vừa khẳng định quyết tâm sắt đá đi theo con đường cách mạng. Tin “Phó quản chiểu đã vào Hội Việt Minh” nhanh chóng lan khắp vùng, từ Píc Cáy đến các bản phía Tây Phja Bjoóc, cổ vũ tinh thần đồng bào chờ đợi cán bộ cách mạng về với bản mình.

Ông Triệu Thanh Bảo, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ xã Mỹ Phương (nay là xã Thượng Minh), cháu ruột của phó quản chiểu Vần, nhớ lại: “Ngày ấy Píc Cáy chỉ có chưa đến chục nóc nhà. Lễ ăn thề diễn ra tại nhà ông Vần, có đông đủ cán bộ cách mạng cùng bà con Dao các bản vùng thấp. Người trực tiếp chặt đầu gà làm lễ là cha tôi - ông Triệu Hữu Tinh. Chiếc bàn dùng trong lễ thề sau này được Bảo tàng tỉnh đưa về lưu giữ như hiện vật lịch sử”.

Trong cuốn sổ ghi chép bằng chữ Nôm của ông Triệu Hữu Pu (con trai thứ hai của ông Triệu Đức Vần), danh sách những người tham gia lễ thề còn được lưu lại, trong đó có cả cán bộ bí danh “Hợp” của ông Nông Văn Quang. Những trang giấy mộc mạc ấy là chứng tích sống động về một sự kiện đã làm thay đổi vận mệnh bản làng.

Trong hồi ký "Con đường Nam tiến" (NXB Văn hóa dân tộc-1995), ông Nông Văn Quang kể lại một chuyến đi Píc Cáy vào năm 1943 như sau:

“Đi từ sáng sớm chiều tối mới đến Píc Cáy, đến đây anh giao thông vào gõ cửa nhà ông Phó quản Vần. Ông mới đi nằm cũng dậy luôn hỏi: “Ai? người lạ hay người quen?”, “Tào miền, tôi ở bên Nà Lồm đưa cán bộ sang đây” – tiếng người giao thông trả lời.

- Cán bộ tên gì? Đồng chí ấy ở đâu?

- Đồng chí Hợp. Còn ở ngoài kia, đang chờ.

- À thế ra anh em người Dao mình ở Nà Lồm cũng đã vào hội rồi à?

Cả chủ nhà và anh giao thông ra đầu nhà đón tôi, ông Huần bảo bắt gà làm bữa tối tiếp chúng tôi. Cơm nước xong, tôi tranh thủ trao đổi với ông Huần. Cơ sở ở đây đang có nhiều thuận lợi”.

Dấu chân Nam tiến

Đầu năm 1944, trên đường từ xã Nghĩa Tá trở về Cao Bằng, đồng chí Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) cùng đoàn cán bộ Nam tiến đi qua Nà Lồm, Đôn Phong. Khi nghe tin đồng chí Đức Xuân bị địch sát hại, đoàn phải vòng đường khác, vượt qua Phja Bjoóc để sang Píc Cáy.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Nông Văn Quang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch MTTQ Khu Tự trị Việt Bắc (bên trái) cùng đồng chí Doanh Hằng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái là những người từng hoạt động tại Píc Cáy thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Nông Văn Quang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch MTTQ Khu Tự trị Việt Bắc (bên trái) cùng đồng chí Doanh Hằng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bắc Kạn, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Thái là những người từng hoạt động tại Píc Cáy thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám.

Trong hồi ký Từ nhân dân mà ra, Đại tướng viết về những ngày đi trong mưa lạnh, đêm nằm hốc đá… nhưng đồng thời cũng khắc ghi hình ảnh đồng bào Dao ở Píc Cáy âm thầm giúp đỡ, đón tiếp đoàn cán bộ bằng bữa cơm ấm áp: "Nà Lồm là một bản hẻo lánh ở trên triền núi Phja Bjoóc cao hơn mặt biển hàng ngàn thước. Chúng tôi rút lên rừng vầu, ở lại ít ngày, đêm đến, trời lạnh cắt da cắt thịt. Quần áo, chăn màn thiếu thốn, đêm nằm như có muôn vàn chiếc kim từ trên châm xuống, từ dưới châm lên. Sau vài ngày điều tra, biết đích xác đồng chí Đức Xuân đã bị địch hại, mọi người đều rất thương xót... Chúng tôi tiếp tục đi trở về Cao Bằng. Để đề phòng sự bất trắc, chúng tôi không đi theo đường cũ, mà đi ngược theo dãy núi Phja Bjoóc.

Đồng chí Mán dẫn đường chiếu hướng Bắc, dùng dao phát cây mở lối đi dọc trên những đỉnh núi. Tiết trời đã về cuối đông, trên núi cao càng giá buốt. Nhiều lúc cả đoàn đang đi trong mưa mau, rét tê tái, nhìn xuống chân núi lại thấy nắng vàng rực trải ra trên những cánh đồng. Nghĩ đến một ngày mai tươi sáng tự do đi lại trên nẻo đường bằng phẳng của đất nước, cảm thấy người ấm lại. Ngày đi miết. Đêm tìm hốc đá nằm nghỉ. Có buổi sáng tỉnh dậy, sờ tay lên mặt thấy một con vắt tròn mọng nằm bám ở mi mắt... Cuối cùng, cả đoàn chúng tôi đã vượt qua hết dãy núi Phja Bjoóc. Đồng bào ở lũng Mán dưới chân núi đón đoàn cán bộ vừa đi xung phong Nam tiến về bằng một bữa cơm rất linh đình, mặc dầu ở các vùng chung quanh địch đang lùng sục ráo riết”.

Píc Cáy đã trở thành nơi trú chân, tiếp sức cho Nam tiến, góp phần nối liền căn cứ Cao Bằng với Bắc Sơn – Võ Nhai, mở thông mạch liên lạc với Trung ương.

Píc Cáy trong kháng chiến

Thực dân Pháp và phát xít Nhật không từ thủ đoạn nào để triệt phá phong trào. Tại Píc Cáy, trong một trận càn, giặc đã bắn chết ông Triệu Đức Chu, hội viên Việt Minh trung kiên. Đồng bào chạy vào rừng, dù thiếu thốn vẫn kiên quyết tổ chức lại lực lượng, bảo vệ cơ sở, đón cán bộ về chỉ đạo phong trào.

Ngày 11/8/1945, Tỉnh ủy Bắc Kạn chọn Píc Cáy làm nơi mở hội nghị quân chính bàn phương án tiến công quân Nhật, giải phóng thị xã. Tuy hội nghị phải tạm hoãn do địch phá, nhưng nơi đây vẫn là điểm hội tụ ý chí cách mạng, ghi dấu bước chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền.

Chống thực dân Pháp

Trong cuộc kháng chiến chín năm, Píc Cáy tiếp tục giữ vai trò hậu cứ. Năm 1947, tòa soạn báo Cứu quốc sơ tán về bản Hậu (Mỹ Phương), dựa vào sự giúp đỡ của bà con người Dao ở Píc Cáy, Vằng Kheo, Khuổi Khún. Nhà văn Tô Hoài, Nam Cao, nhà báo – sau này là Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy… đều từng sống và viết tại nơi đây.

Nhà văn Tô Hoài từng ghi trong Hồi ký 7-1947: "Chúng tôi lên Cốc Phường, qua Vằng Kheo, sang Píc Cáy, ngọn núi cao nhất, đến một xóm Dao, tôi biết thêm sự tích núi Phja Bjoóc - Phja Bjoóc là núi Hoa, núi Hoa thơ mộng. Bởi vì trên núi có dòng suối, ban đêm nước chảy lóng lánh cát vàng, cát bạc sáng như rắc hoa. Tôi ngồi giữa yên tĩnh rừng núi Phja Bjoóc và những làng Dao. Tưởng như bọn Tây đang đốt phá dưới chân núi kia là cái bóng chập chờn ngoài cuộc đời này”. Cũng tại đây, Xuân Thủy xúc cảm viết bài thơ “Đường lên Píc Cáy âm u” in trên báo Cứu quốc Việt Bắc".

Ai ngờ một bản làng Dao heo hút trên núi cao lại có niềm tự hào đặc biệt: từng che chở, nuôi giấu, giúp đỡ những chiến sĩ cách mạng, những nhà văn, nhà báo, nhà ngoại giao lớn của đất nước. Ngược lại, Píc Cáy cũng chính là “lò luyện” hun đúc ý chí, tinh thần của những người cộng sản trong những ngày gian khổ.

Píc Cáy hôm nay

Khoảng năm 1967-1968, ông Nông Văn Quang, người cán bộ Nam tiến năm xưa, khi ấy là Khu ủy viên, Ủy viên Ủy ban hành chính Khu Tự trị Việt Bắc từng hai lần trở lại Píc Cáy thăm lại cơ sở cách mạng cũ, đồng thời vận động bà con hạ sơn xây dựng kinh tế mới theo chủ trương của Đảng. Nhờ đó, hậu duệ phó quản chiểu Triệu Đức Vần có nhiều người tiếp nối truyền thống, tham gia công tác xã hội; trong đó, con trai út Triệu Hữu Lý từng được cử đi du học Trung Quốc, sau này giữ chức Vụ trưởng, Ủy ban Dân tộc và Miền núi năm 1994.

Hiện nay, bản Píc Cáy chỉ còn 4 hộ dân sinh sống, tất cả đều thuộc diện hộ nghèo, chủ yếu dựa vào kinh tế rừng, trồng ngô và lúa. Vừa qua, cả 4 hộ đã được Nhà nước hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát. Tuy nhiên, bản vẫn chưa có điện lưới quốc gia, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn.

Anh Triệu Văn Thủy, Bí thư Chi bộ thôn Khuổi Lùng, chắt của Phó quản chiểu Triệu Đức Vần cho biết: Píc Cáy có tiềm năng lớn về du lịch sinh thái và lịch sử, với dòng suối trong mát rất phù hợp để nuôi các loài cá có giá trị kinh tế cao như cá chày, cá dầm xanh. Nguyện vọng chung của bà con là sớm được dựng bia di tích lịch sử, được đầu tư kéo điện, mở đường bê tông lên bản, qua đó tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Cần tri ân xứng đáng

Píc Cáy đã được Bảo tàng tỉnh lập hồ sơ kiểm kê di tích từ nhiều năm, đến năm 2023 đã được UBND tỉnh Bắc Kạn xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh. Tuy nhiên, nhiều hiện vật lịch sử quý giá còn rải rác trong dân, có nguy cơ hư hỏng, mất mát. Lá thư của Tổng bộ Việt Minh gửi bà con Píc Cáy năm 1948, minh chứng cho sự gắn bó máu thịt giữa cách mạng và nhân dân, hiện đã mục nát, vẫn còn được gia đình anh Triệu Văn Thủy, Bí thư Chi bộ thôn Khuổi Lùng lưu lại, nội dung thư đã được in trong cuốn lịch sử Đảng bộ xã Mỹ Phương (cũ).

Thư có đoạn: “Các bạn vì cách mạng, vì đất nước giúp đỡ chúng tôi nên cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã mau khởi nghĩa thành công và cuộc kháng chiến cũng như cuộc thi đua cứu quốc ngày này đang tiến và mạnh... Kháng chiến thắng lợi, giặc Pháp và bù nhìn bị quét sạch, đất nước hoàn toàn độc lập thì chúng ta sẽ gặp nhau vui sướng, hân hoan trong những ngày vinh quang của dân tộc” .

Vị trí nền nhà phó quản chiểu Triệu Đức Vần, nơi diễn ra lễ ăn thề vào Hội Việt Minh năm 1943
Vị trí nền nhà Phó quản chiểu Triệu Đức Vần, nơi diễn ra lễ ăn thề vào Hội Việt Minh năm 1943.

Ngoài ra, năm 1965 ông Triệu Hữu Pu (con thứ hai của phó quản chiểu Vần) được Ủy ban hành chính tỉnh Bắc Kạn cấp khẩu súng kíp cùng cả giấy chứng nhận số 336/TC-UB do Chủ tịch UBHC tỉnh Hoàng Mỹ Đức ký ngày 14/4/1965, trên giấy ghi: “Chứng nhận ông Triệu Hữu Pu, dân tộc Dao ở xóm Píc Cáy, xã Mỹ Phương, huyện Chợ Rã là người có công giúp đỡ cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Được ủy ban hành chính tỉnh cấp cho một khẩu súng kíp để cho ông Pu dùng làm súng tư, bảo vệ mùa màng”.

Giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ thiêng liêng, cần được thực hiện thông qua những “địa chỉ đỏ” giàu ý nghĩa. Căn cứ cách mạng Píc Cáy, ngoài việc đã được tri ân bằng công nhận di tích lịch sử, rất cần được quan tâm đầu tư thích đáng để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Như vậy, nơi đây không chỉ lưu giữ ký ức hào hùng, mà còn trở thành không gian giáo dục, hun đúc lòng yêu nước cho các thế hệ mai sau.